Tiếng Việt là linh hồn của dân tộc Việt Nam, là phương tiện lưu giữ lịch sử, văn hóa và bản sắc dân tộc qua hàng ngàn năm. Trong “Bài nói chuyện tại Đại hội lần thứ III của Hội Nhà báo Việt Nam”, ngày 8-9-1962, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Tiếng nói là thứ của cải vô cùng lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta phải giữ gìn nó, quý trọng nó, làm cho nó phổ biến ngày càng rộng khắp”.

Trước đó, nhà báo Phạm Quỳnh đã đề cao giá trị và vai trò của tiếng Việt qua câu nói nổi tiếng: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, tức là dân tộc ta, đất nước ta gắn liền với tiếng Việt. Điều đó đã được lịch sử chứng minh qua nhiều giai đoạn thăng trầm của đất nước, nhất là gắn với những giai đoạn đồng hóa của các thế lực ngoại bang. Thế nhưng, trong bối cảnh hội nhập quốc tế và sự bùng nổ của công nghệ số hiện nay, tiếng Việt đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng: hiện tượng lai căng, dùng từ sai lệch, viết tắt vô tội vạ, pha trộn tiếng nước ngoài một cách tùy tiện, đặc biệt ở giới trẻ. Học sinh – thế hệ chủ nhân tương lai của đất nước – lại chính là đối tượng dễ bị ảnh hưởng nhất bởi những trào lưu ngôn ngữ lệch chuẩn trên mạng xã hội. Vì vậy, việc khơi dậy tình yêu và ý thức trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong học sinh không chỉ là nhiệm vụ của ngành giáo dục mà còn là trách nhiệm của toàn xã hội.
Trước hết, cần nhận diện rõ những nguy cơ đang làm tổn hại đến sự trong sáng của tiếng Việt hiện nay. Đó là sự xâm nhập ồ ạt của tiếng lóng, tiếng mạng và từ vay mượn chưa được Việt hóa. Những cụm từ như “crush”, “ex”, “flex”, “chill”, “gen Z language”… được sử dụng tràn lan mà không cần dịch nghĩa. Đó là thói quen viết tắt quá mức (như: “vk” là “vợ”, “ck” là “chồng”, hoặc các kiểu viết tắt theo “công thức”: “biết rồi” thành “bit rui”, “bây giờ” thành “bi h”, “không” thành “0”, “ko”, “k”, “kh”, “kg”…), biến tiếng Việt thành một thứ “mã hóa” khó hiểu. Đó là hiện tượng nói ngọng, phát âm sai, lẫn lộn giữa các vùng miền và đặc biệt là sự lười biếng trong việc sử dụng dấu câu, chính tả khi giao tiếp trực tuyến. Những hiện tượng này không chỉ làm nghèo nàn vốn từ tiếng Việt mà còn khiến thế hệ trẻ dần xa rời vẻ đẹp vốn có của ngôn ngữ mẹ đẻ. Vậy làm thế nào để nâng cao tình yêu và trách nhiệm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cho học sinh? Cần một hệ thống giải pháp đồng bộ, lâu dài từ gia đình, nhà trường đến xã hội.
Thứ nhất, nhà trường cần đổi mới phương pháp dạy và học môn ngữ văn một cách thực chất hơn. Bên cạnh tập trung vào phân tích tác phẩm văn học theo chương trình, giáo viên cần quan tâm biến giờ ngữ văn thành giờ trải nghiệm vẻ đẹp tiếng Việt. Có thể tổ chức các tiết học ngoài trời, các buổi thuyết trình về nguồn gốc từ ngữ, lịch sử hình thành chữ Quốc ngữ hay những câu chuyện thú vị về từ Hán Việt, từ thuần Việt… Việc lồng ghép các hoạt động sáng tác thơ, truyện ngắn, viết thư tay, làm báo tường… bằng tiếng Việt chuẩn mực sẽ giúp học sinh cảm nhận được sự giàu đẹp và tinh tế của ngôn ngữ mẹ đẻ. Nhiều trường đã thành công với mô hình “Câu lạc bộ tiếng Việt yêu thương”, “Ngày hội viết đúng chính tả”, “Đố vui từ ngữ”…, có thể là những cách làm rất đáng nhân rộng.
Thứ hai, cần tăng cường giáo dục ý thức công dân ngôn ngữ ngay từ bậc tiểu học. Giáo viên cần quan tâm dạy các em rằng giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và dùng tiếng Việt như vốn nó tồn tại không phải là “lỗi thời” hay “cổ hủ” mà chính là cách thể hiện lòng tự hào dân tộc. Có thể đưa vào chương trình học chính khóa những bài học về trách nhiệm ngôn ngữ, về tác hại của việc dùng từ lai căng, về những tấm gương sử dụng tiếng Việt chuẩn mực (như các nhà báo, nhà văn, phát thanh viên nổi tiếng…). Đồng thời, cần khen thưởng kịp thời những học sinh viết văn hay, nói năng lưu loát, phát biểu ý kiến rõ ràng, trong sáng – để các em thấy rằng việc dùng tiếng Việt đẹp cũng “ngầu” không kém gì việc dùng tiếng lóng.
Thứ ba, gia đình đóng vai trò nền tảng trong việc hình thành thói quen dùng tiếng Việt đúng. Cha mẹ cần làm gương bằng cách nói năng chuẩn mực, tránh dùng từ đệm vô nghĩa, từ tục tĩu, dùng tiếng Việt thiếu trong sáng trước mặt con cái. Thay vì để con “cày” mạng xã hội không kiểm soát, phụ huynh nên cùng con đọc báo, chơi trò chơi ngôn ngữ (đố chữ, ghép vần, kể chuyện cổ tích…). Việc khuyến khích trẻ viết nhật ký, gửi thư tay cho ông bà bằng tiếng Việt sẽ giúp các em gắn bó hơn với ngôn ngữ mẹ đẻ. Và đương nhiên, việc thường xuyên đọc sách để nâng cao vốn từ tiếng Việt, nhất là sử dụng các lối diễn đạt hay, đẹp của tiếng Việt, là hết sức cần thiết cho cả phụ huynh và trẻ.
Thứ tư, cần có sự chung tay của xã hội và truyền thông. Các phương tiện truyền thông đại chúng cần làm tốt hơn vai trò định hướng ngôn ngữ. Thay vì chạy theo thị hiếu dùng từ “teen code”, “văn hóa gen Z” một cách tùy tiện, các chương trình thiếu nhi, gameshow, phim hoạt hình cần ưu tiên sử dụng tiếng Việt chuẩn mực, giàu hình ảnh. Người dùng mạng xã hội, nhất là trên TikTok, Facebook, nên quan tâm khuyến khích nội dung tiếng Việt trong sáng; cơ quan chức năng có thể phối hợp với các nền tảng mạng xã hội xuyên biên giới thực hiện việc gắn nhãn cảnh báo với những nội dung dùng ngôn ngữ lệch chuẩn quá mức, có tính chất dung tục… Cần tác động rộng rãi để người xem mạng xã hội tránh xem hoặc tẩy chay với các trang thường xuyên dùng từ ngữ dung tục, thiếu trong sáng. Nhà nước có thể phát động các cuộc vận động lớn như “Nói tiếng Việt chuẩn – Tự hào dân tộc Việt” hay “Một triệu bài viết tiếng Việt sạch” dành cho học sinh trên toàn quốc. Về lâu dài, cần nghiên cứu ban hành một văn bản quy phạm pháp luật về tiếng Việt, có thể là một pháp lệnh và sau nữa là luật tiếng Việt để định hướng việc dùng đúng tiếng Việt cũng như xử lý các trường hợp làm méo mó ngôn ngữ này.
Thứ năm, cần tận dụng chính công nghệ để bảo vệ tiếng Việt thay vì để công nghệ làm hỏng tiếng Việt. Các ứng dụng gợi ý chính tả tiếng Việt (như VietKeyboard, Laban Key…), các phần mềm kiểm tra lỗi chính tả, các trang web từ điển trực tuyến (từ điển của Hoàng Phê, từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học) cần được phổ biến rộng rãi trong trường học. Thậm chí có thể phát triển các trò chơi giáo dục trên điện thoại dạy cách dùng từ đúng, phát âm chuẩn – vừa vui vừa hiệu quả với thế hệ học sinh “sống trên mạng”.
Cuối cùng, điều quan trọng nhất vẫn là giúp học sinh nhận ra rằng: tiếng Việt không chỉ là công cụ giao tiếp mà còn là ngôi nhà tinh thần của mỗi người Việt Nam. Khi các em yêu tiếng Việt, các em sẽ tự giác giữ gìn nó. Một học sinh biết xúc động trước câu thơ “Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông” trong Truyện Kiều, biết tự hào khi nghe câu ca dao “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, biết rung động trước những bài văn đẹp bằng tiếng Việt trong trẻo… thì không bao giờ các em chấp nhận làm nghèo đi ngôn ngữ của dân tộc mình.
Có thể nói, giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là giữ gìn cội nguồn dân tộc, là trách nhiệm của mỗi người Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ. Hãy hành động ngay hôm nay, từ những việc nhỏ nhất: viết một status sạch sẽ, nói một câu chuẩn mực, đọc một trang sách hay bằng tiếng Việt… Bởi chỉ khi tiếng Việt còn trong sáng, tâm hồn Việt Nam mới mãi đẹp đẽ và trường tồn.
Nguyễn Minh Hải

Bình luận (0)