Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Giải pháp phát triển giáo dục vùng cao: Kỳ II

Tạp Chí Giáo Dục

 

Tại Hội nghị giao ban giáo dục các tỉnh miền núi phía bắc mới đây, Phó Giám đốc Sở Giáo dục và Ðào tạo tỉnh Cao Bằng băn khoăn: Giáo dục Cao Bằng nói riêng, vùng cao nói chung, đã có những bước tiến bộ đáng kể, nhưng so với mặt bằng chung cả nước thì vùng cao vẫn thuộc tốp "cầm đèn đỏ".
> Giải pháp phát triển giáo dục vùng cao: Tiếng Việt – bài toán nâng cao chất lượng
Kỳ 2: Nội trú dân nuôi – gỡ "nút thắt" cho học sinh đến trường
Dựng phòng ở cho học sinh nội trú ở Nhận Môn, Bắc Cạn.
Học sinh tíu tít tranh thủ nấu bữa ăn trưa. Bữa ăn vẫn là món cơm và rau luộc nhưng các em rất chan hòa. Khu "ký túc xá" bên cạnh trường với mỗi phòng chỉ rộng từ năm đến bảy m2 nhưng có tới bốn, năm học sinh cùng sinh sống. Dù còn đơn sơ, nhưng cũng là nơi sưởi ấm hành trình đến với con chữ của học sinh các bản làng người Mông, người Tày… "Ký túc xá" giữa rừng Sùng A Dí, người bản Ngảm Váng (Bắc Cạn) năm nay mới học lớp năm nhưng đã phải xa gia đình để bước vào cuộc sống "tự lập" nơi trường lớp. Bản làng cách trường hơn 12 km, đường dốc núi cho nên em không thể đi về trong ngày. Gia đình Sùng A Dí phải dựng lều ở tạm ngay cạnh trường cho con đi học. Câu chuyện với chúng tôi như ấm dần lên. Qua cái rụt rè, ngại ngùng ban đầu, Sùng A Dí tâm sự: Ở đây chúng em phải tự túc tất cả.
Trong diện tích không quá mười mét vuông nhưng có tới sáu học sinh cùng trọ học. Khu nhà ở giản đơn như những lán trại lợp tạm. Nhiều khi gặp mưa bão phòng ở còn bị tốc mái. Khi mùa đông về trong phòng lúc nào cũng phải đốt lửa cho ấm. Ấy vậy mà gió rít qua các khe hở khiến cái lạnh vẫn thấu xương. Cuộc sống có những ngày thiếu cả lương thực, thực phẩm. Góc học tập được kê ngay trên đầu giường bằng một mảnh gỗ rồi mỗi em một quyển sách, vở tự học. Cứ cuối tuần lại về nhà lấy gạo rồi góp vào thổi cơm chung. Một nồi cơm được vần trên cái bếp bắc kiềng bằng ba cục gạch đang sôi sùng sục. Thức ăn toàn rau. Phòng kế bên, dù đã bước vào tuổi 16, cái tuổi lẽ ra phải học lớp mười, nhưng Ðặng Văn Hiền, người dân tộc Dao ở bản San Vè mới chỉ theo học lớp sáu bổ túc tại Trường THCS Nhạn Môn.
Không mặc cảm về tuổi tác, khi trò chuyện với chúng tôi, em vẫn rất vui. Bởi vì San Vè là bản vùng cao cách điểm trường chính của xã khoảng 15 km. Mỗi khi đi học, các em học sinh phải vượt núi theo đường mòn và phải qua hai con suối mới tới trường. Vậy là sau khi học lớp năm em đành bỏ học vì không thể đến lớp trong ngày. Hơn ba năm ở nhà lên nương, rẫy giúp cha mẹ, đến khi có sự hỗ trợ về học bổ túc của tỉnh, được nội trú trong trường, dù quá tuổi nhưng em vẫn quyết tâm trở lại hành trình cùng con chữ. Ðã từ lâu, trường phổ thông có nội trú dân nuôi đã tồn tại, phát triển và ngày càng khẳng định tính ưu việt. Các mô hình trường lớp nội trú dân nuôi phổ biến là học sinh tự làm lều lán khu vực chung quanh trường hoặc thuê nhà trọ của đồng bào chung quanh trường để ở.
Các em mang lương thực, thực phẩm đến trường tự nấu ăn và sinh hoạt cả tuần. Nhiều đơn vị trường học có nội trú dân nuôi đã trở thành những điểm sáng về giáo dục ở vùng cao. Với thực tiễn của tỉnh miền núi phía tây Tổ quốc, Phó Giám đốc Sở GD và ÐT tỉnh Ðiện Biên Nguyễn Mạnh Quân cùng chung quan điểm cho rằng, mô hình nội trú dân nuôi dù còn hạn chế nhưng đã giải quyết một số khó khăn lớn của giáo dục vùng cao, vùng dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa. Mô hình nội trú dân nuôi góp phần huy động học sinh tới trường cũng như nâng cao chất lượng giáo dục và nhận thức của cộng đồng. Nhờ được tập trung tại các trường hoặc gần trường, không phải đi xa hoặc bị chi phối bởi thời tiết, khí hậu khắc nghiệt… các em có thời gian tập trung cho việc học nhiều hơn. Vì vậy, kết quả học tập, rèn luyện của các em có điều kiện nâng lên, khắc phục được hiện tượng lưu ban, giảm tình trạng bỏ học vì đường xa…
Việc tổ chức nội trú dân nuôi trong các trường phổ thông đã thúc đẩy phong trào giáo dục ở vùng dân tộc phát triển. Tính đến tháng 3- 2009, cả nước có một nghìn 728 trường phổ thông có nội trú dân nuôi, với 147 nghìn 447 học sinh ở nội trú. Trong đó có 780 trường tiểu học với hơn 51 nghìn học sinh, 855 trường THCS có 79 nghìn 743 học sinh và 93 trường THPT có 18 nghìn 700 học sinh nội trú dân nuôi. Dẫn đầu là tỉnh Nghệ An có hơn 41 nghìn học sinh nội trú dân nuôi ở 112 trường, tỉnh Ðiện Biên có hơn 17 nghìn học sinh nội trú dân nuôi ở 189 trường; Sơn La có hơn 17 nghìn học sinh nội trú dân nuôi ở 83 trường… Những con số đó, dù không biết nói, nhưng phần nào khẳng định tính thiết thực cho giáo dục vùng cao từ mô hình nội trú dân nuôi.
Hiện nay, Nhà nước có chính sách hỗ trợ học sinh các lớp thuộc hệ phổ thông do điều kiện trường lớp xa nhà, đi lại khó khăn phải ăn, ở tập trung tại trường, lớp. Mỗi học sinh được hưởng 140 nghìn đồng tiền ăn một tháng trong chín tháng học. Ngoài chính sách chung của cả nước, các địa phương còn có chính sách riêng hỗ trợ học sinh nội trú dân nuôi, như tỉnh Hà Giang trợ giúp mỗi học sinh từ lớp ba đến lớp chín ở nội trú 100 nghìn đồng/tháng, thực hiện trong chín tháng mỗi năm; tỉnh Ðắc Nông trợ giúp mỗi học sinh nội trú dân nuôi 20 nghìn đồng/tháng… Sự vào cuộc của chính quyền địa phương đã góp phần thúc đẩy mô hình trường nội trú dân nuôi phát triển mạnh mẽ, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo trong cả nước.
Cần có thêm "cú hích"
Bí thư Huyện ủy Bạch Thông (Bắc Cạn) Triệu Ðức Lân, không giấu nổi niềm vui khi nói với chúng tôi rằng, việc hình thành các trường nội trú dân nuôi trong thời gian vừa qua chính là một trong những nguyên nhân để Bạch Thông không có học sinh nào bỏ học. Tuy nhiên, cũng không phải không có những trăn trở khi mà những "ký túc xá" giữa núi rừng của học sinh còn quá sơ sài, tạm bợ tưởng như không thể vững cho "con chữ" bám trụ. Vừa giới thiệu khu trường học đang được xây dựng theo chương trình kiên cố hóa, Bí thư Huyện ủy vừa phân trần: Bên cạnh việc xây dựng trường, lớp học và nhà công vụ giáo viên, rất cần Nhà nước hỗ trợ địa phương xây dựng các khu nhà ở nội trú dân nuôi cho học sinh. Từ thực tiễn của một tỉnh vùng núi cao, lãnh đạo Sở Giáo dục và Ðào tạo Lào Cai, cho rằng, để loại hình bán trú dân nuôi phát huy hiệu quả, cần có sự vào cuộc mạnh mẽ của cả cộng đồng trong việc xây dựng trường, lớp bán trú và nội trú dân nuôi, bảo đảm huy động và duy trì số lượng học sinh.
Do đó, cần đưa nhiệm vụ huy động, duy trì số lượng học sinh thành chỉ tiêu đánh giá, từng tổ chức đảng, đảng viên và được giao cụ thể cho các ngành, các cấp, các tổ chức đoàn thể triển khai thực hiện. Còn các chuyên gia giáo dục thì nhận định: Nội trú dân nuôi là loại hình đang ngày càng khẳng định tính ưu việt nhưng quá trình triển khai loại hình này ở các địa phương còn nhiều vướng mắc, hạn chế. Cần tiếp tục nâng cấp cơ sở vật chất, khu nội trú, như giường nằm, dụng cụ học tập như bàn, ghế, giá sách phục vụ học tập của học sinh. Tránh tình trạng một số lán trại của học sinh được dựng cách xa trường vài km khiến giáo viên và ban giám hiệu không quản lý được các hoạt động ngoài giờ của các em. Cần trợ giúp các em lương thực, thực phẩm,…
Ở phần lớn các tỉnh miền núi hiện nay, việc vượt đèo, băng suối để đến với "con chữ" là chuyện phổ biến với các em học sinh. Tuy nhiên, mỗi lần đến với vùng non cao lại một lần chúng tôi có một nỗi niềm riêng. Bài toán về chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số, vùng cao còn nan giải. Tuy nhiên, nhiều giải pháp đã được đưa ra, trong đó vấn đề dạy tiếng Việt và xây dựng mô hình nội trú dân nuôi đang khẳng định tính ưu việt rõ nét. Bên cạnh đó, các thầy giáo, cô giáo và cả xã hội luôn luôn tìm tòi những giải pháp hiệu quả nhất để các em yên tâm học hành, để cho "con chữ" thắp sáng vùng cao.
Theo NhanDan

 

Bình luận (0)