Sự kiện giáo dụcVấn đề - Sự kiện

Giải pháp xây dựng nền giáo dục hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới

Tạp Chí Giáo Dục

D tho văn kin trình Đi hi đi biu toàn quc ln th XIV ca Đng đã khng đnh v trí then cht ca giáo dc trong chiến lưc phát trin đt nưc.

Theo tác giả, Dự thảo văn kiện Đại hội XIV không chỉ là “ngọn đuốc soi đường” mà còn là lời hiệu triệu hành động, biến giáo dục thành sức mạnh nội sinh cho dân tộc hùng cường (ảnh minh họa). Ảnh: Anh Khôi

Với khát vọng đưa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, dự thảo nhấn mạnh giáo dục là quốc sách hàng đầu, là nền tảng để xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế. Định hướng cốt lõi là xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại, mở, liên thông, ngang tầm khu vực và thế giới, lấy con người làm trung tâm, hướng tới phát triển toàn diện và bền vững. Điều này không chỉ kế thừa tinh thần Nghị quyết 29-NQ/TW năm 2013 mà còn cập nhật với bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0, kinh tế số và trí tuệ nhân tạo (AI). Việc hiện thực hóa định hướng này đòi hỏi hệ thống giải pháp đồng bộ, đột phá, từ thể chế đến thực tiễn, nhằm khắc phục bất cập hiện nay như thiếu liên thông giữa các bậc học, chất lượng chưa đồng đều và khoảng cách vùng miền.

Các định hướng trong dự thảo văn kiện tập trung vào việc hình thành hệ thống giáo dục thống nhất, linh hoạt, phù hợp với Phân loại giáo dục quốc tế (ISCED 2011) của UNESCO. Cụ thể, sau THCS, học sinh sẽ phân luồng hai hướng: THPT, chiếm không quá 50% để cung cấp nguồn tuyển đại học và trung học nghề, trên 30%, hướng tới lao động chất lượng cao. Sau THPT, phân luồng đại học nghiên cứu (4-6 năm) hoặc đại học ứng dụng (cao đẳng thực hành 3 năm, đại học ứng dụng 4 năm). Hệ thống này đảm bảo “không đóng luồng”, cho phép chuyển tiếp linh hoạt giữa học thuật và nghề nghiệp, khuyến khích tỷ lệ phân luồng THPT: nghề lên 30:70 như các nước phát triển. Định hướng còn nhấn mạnh học tập suốt đời, tích hợp công nghệ số, giáo dục đạo đức cách mạng và hội nhập quốc tế, nhằm tạo nguồn nhân lực đáp ứng kinh tế số, bảo vệ môi trường và an ninh mạng. Điều đó sẽ góp phần xây dựng nền giáo dục quốc dân hiện đại ngang tầm khu vực và thế giới, là yêu cầu cấp thiết để nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Có như vậy, Việt Nam tránh tụt hậu, thu hút đầu tư và hợp tác khoa học công nghệ toàn cầu.

Từ đó, có thể mạnh dạn đề ra một số mục tiêu như: Đến 2030: 100% trường phổ thông đạt chuẩn quốc gia; ≥ 30 trường đại học lọt top 500 thế giới (QS, THE, đây là hai hệ thống xếp hạng đại học danh tiếng, là QS World University Rankings và Times Higher Education, cả hai đều sử dụng các tiêu chí khác nhau để đánh giá và xếp hạng các trường đại học trên toàn cầu); tỷ lệ lao động qua đào tạo ≥ 80%, trong đó ≥ 45% có bằng cấp/chứng chỉ; chỉ số phát triển con người (HDI) nhóm cao. Đến 2045: Việt Nam thuộc top 30 quốc gia về giáo dục (theo PISA, TIMSS, đây là hai kỳ thi đánh giá quốc tế về thành tích học tập của học sinh, tập trung vào các môn học khác nhau và ở các cấp độ khác nhau); ≥ 5 trường đại học top 100 thế giới; 100% lao động trình độ cao đáp ứng cách mạng công nghiệp 4.0.

Để hiện thực hóa, dự thảo đề ra các giải pháp đột phá, cụ thể và khả thi. Trước hết, cần tái cấu trúc khung cơ cấu hệ thống giáo dục dưới sự thống nhất quản lý của Bộ GD-ĐT, loại bỏ sự phân tán giữa ba luật riêng biệt (phổ thông, nghề nghiệp, đại học). Giải pháp này đảm bảo đồng bộ chính sách, chuẩn đầu ra và phân tầng chất lượng, đồng thời phân cấp mạnh cho địa phương về ngành nghề, chương trình học bám sát chuyển dịch kinh tế vùng miền. Ví dụ, tái tổ chức trường sau THCS thành hai loại: THPT và trung học nghề bằng cách sáp nhập các trường hiện có, tạo mạng lưới linh hoạt, minh bạch văn bằng và tín chỉ. Đồng thời, ưu đãi chính sách cho giáo dục nghề: miễn giảm học phí, học bổng, đảm bảo việc làm, thay đổi nhận thức xã hội để học nghề ngang bằng học đại học, tránh “ngõ cụt” phân luồng… Thứ hai, đổi mới chương trình và phương pháp giảng dạy là khâu then chốt. Dự thảo yêu cầu xây dựng Chiến lược giáo dục – đào tạo đến 2030, tầm nhìn 2045, tích hợp AI, STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học kết hợp nghệ thuật, đạo đức) vào toàn bộ chương trình từ phổ thông đến đại học. Cần áp dụng mô hình “thực hành, thực học, thực danh, thực nghiệp”, hạn chế thành tích hình thức, khuyến khích sáng tạo và giải quyết vấn đề thực tiễn. Ứng dụng công nghệ thông tin, AI trong giảng dạy để tăng tính linh hoạt, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa qua học trực tuyến. Liên kết chặt chẽ nhà trường – doanh nghiệp giúp sinh viên thực tập, rèn kỹ năng mềm, bám sát nhu cầu thị trường lao động, khắc phục tình trạng “đào tạo không gắn với thực tiễn”. Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý. Dự thảo chỉ ra bất cập đãi ngộ, đề xuất tăng lương cơ bản lên mức trung bình ASEAN, hỗ trợ đào tạo nước ngoài về phương pháp hiện đại. Xây dựng hệ thống đánh giá dựa trên kết quả học tập học sinh, không chỉ bằng cấp; hình thành chức danh riêng cho giáo viên thực hành và viên chức bổ trợ. Khuyến khích nghiên cứu khoa học giáo dục, trao giải thưởng quốc tế để thu hút nhân tài, đảm bảo đội ngũ “gương mẫu, trách nhiệm, đạo đức”. Đồng thời, khắc phục các biểu hiện xem nhẹ nghề giáo và nhà giáo, cũng như triệt để chấn chỉnh các biểu hiện chưa tích cực trong chính đội ngũ nhà giáo để tạo hình ảnh mới cho giáo viên nói riêng và ngành giáo dục nói chúng. Thứ tư, đảm bảo bình đẳng tiếp cận giáo dục cho mọi tầng lớp. Mở rộng trường nội trú, hỗ trợ học phí đến đại học cho con em dân tộc thiểu số, vùng biên giới; xã hội hóa giáo dục dưới kiểm soát của Nhà nước để thu hút đầu tư tư nhân, tránh thương mại hóa. Tích hợp giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, giá trị văn hóa dân tộc vào chương trình, hình thành khát vọng dân tộc và trách nhiệm xã hội, trong cả giáo viên, giảng viên lẫn học sinh, sinh viên, để tạo động lực mạnh mẽ cho sự tham gia vào công cuộc phát triển đất nước. Cuối cùng, tăng cường hợp tác quốc tế và tự chủ cơ sở giáo dục. Đẩy mạnh trao đổi sinh viên, giảng viên; tham gia xếp hạng đại học toàn cầu; công nhận bằng cấp quốc tế; khuyến khích khởi nghiệp từ đại học. Tăng tự chủ tài chính, học thuật cho đại học, kèm trách nhiệm giải trình, thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng và hội nhập sâu rộng.

Từ các đề xuất đó, cần quan tâm một số vấn đề cụ thể. Chẳng hạn, về đổi mới chương trình – sách giáo khoa – phương pháp dạy học, cần xây dựng chương trình quốc gia mới, trong đó chú trọng các định hướng như giảm 40% kiến thức hàn lâm, tăng kỹ năng mềm, tư duy phản biện, sáng tạo; tích hợp một số môn bắt buộc như công nghệ số, tiếng Anh, giáo dục tài chính, giáo dục môi trường; học lý thuyết 1 buổi/ngày, còn lại thực hành, dự án, trải nghiệm; thực hiện sách giáo khoa điện tử (bảo đảm 100% từ 2028); AI cá nhân hóa học tập (mỗi học sinh có lộ trình riêng). Về phương pháp dạy học, nghiên cứu phương pháp Flipped classroom (học lý thuyết ở nhà, thảo luận ở lớp) hay Project-based learning (học qua dự án thực tế). Triệt để khắc phục tình trạng học thuộc lòng, kiểm tra đánh đố, điểm số ảo… Do đó chú trọng đánh giá năng lực thay vì điểm số (portfolio, sản phẩm).

Có thể thấy, việc thực hiện các giải pháp trên đòi hỏi quyết tâm chính trị cao, nguồn lực đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, với sự tham gia của toàn xã hội. Dự thảo văn kiện Đại hội XIV không chỉ là “ngọn đuốc soi đường” mà còn là lời hiệu triệu hành động, biến giáo dục thành sức mạnh nội sinh cho dân tộc hùng cường.

Trnh Minh Giang

Bình luận (0)