Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Giáo dục phổ thông nên thực hiện theo tín chỉ

Tạp Chí Giáo Dục

Hiện nay cách dạy và học chỉ nhằm đối phó với thi cử mà không phục vụ yêu cầu dạy làm người. Ảnh: A.Khôi
TS. Huỳnh Công Minh, nguyên Giám đốc Sở GD-ĐT TP.HCM cho rằng thành tựu của giáo dục phổ thông ở Việt Nam hiện nay rất nổi bật về qui mô cũng như chất lượng so với trước đây. Tuy nhiên, nếu so với yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước thì còn nhiều bất cập: Quản lý giáo dục chậm đổi mới, tổ chức thực hiện không đồng bộ, khoa học giáo dục chưa phát triển ngang tầm…
Đi sâu vào hai môn toán và văn
Theo TS. Minh, chương trình THPT của các nước bao gồm 6-8 môn, còn chương trình THPT ở Việt Nam có đến 16 môn. Với chương trình 6 môn, họ giữ 2 môn công cụ là toán và văn, tích hợp các môn lý, hóa, sinh thành môn khoa học tự nhiên và tương tự đối với các môn khoa học xã hội. Không gian và thời gian còn lại của chương trình được dành để dạy các môn phục vụ cuộc sống như kinh tế gia đình, quan hệ xã hội và tích hợp rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh.
Tôi được biết khi nghiên cứu giáo dục ở Phần Lan (năm 2009), thời gian chuẩn bị để phát triển bộ sách giáo khoa (SGK) của họ kéo dài trên 10 năm theo một quy trình rất nghiêm ngặt, gồm 3 bước:
Bước 1: Hội đồng quốc gia giáo dục bao gồm những người có uy tín và năng lực ở các lĩnh vực xã hội có nhiệm vụ xác định mục tiêu đào tạo, tiêu chí con người mới đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội.
Bước 2: Căn cứ vào mục tiêu đào tạo những nhà sư phạm có trách nhiệm biên soạn chương trình, chuẩn kiến thức, kỹ năng và phương thức tổ chức giảng dạy trình Hội đồng phê duyệt, thể nghiệm trước khi triển khai đại trà viết SGK và đầu tư điều kiện tổ chức nhà trường.
Bước 3: Dựa vào chương trình được duyệt, Nhà nước cho phép những người có phẩm chất và năng lực đăng ký viết SGK theo quy định, phát huy được tài năng và trách nhiệm của người viết, học sinh sẽ chọn lựa được những bộ sách phù hợp cho bản thân.
Mặt khác, ở giáo dục phổ thông cũng nên thực hiện tín chỉ như giáo dục ĐH. Với 40 tín chỉ/3 năm học THPT, nhiều nước áp dụng đã thu được những lợi ích cụ thể. Tại một trường trung học ở Mỹ mà tôi có dịp đến nghiên cứu năm 2011: Họ đi sâu một số môn căn bản như toán và văn được xây dựng thành nhiều tín chỉ xuyên suốt trong 3 năm học. Mở rộng năng khiếu đa dạng của thế hệ trẻ, học sinh được chọn trong hàng trăm tín chỉ về các lĩnh vực khác nhau. Làm nhẹ chương trình và thi cử đánh giá – thay vì tập trung thi một lần cấp quốc gia tốn kém, nặng nề, học sinh làm bài kiểm tra 40 lần trong nhà trường, áp lực căng thẳng giảm đi rất nhiều.
Nói đến việc xây dựng chương trình và biên soạn SGK sau năm 2015, chúng ta phải đảm bảo quy trình làm sách và thực hiện quy trình ấy một cách nghiêm túc với từng bước đi chắc chắn và khoa học, không theo cách làm cũ của bộ sách hiện hành.
Đổi mới quan niệm đào tạo và sử dụng nhân lực
Để giải quyết căn bản hình thức và phương pháp đánh giá chất lượng giáo dục, chúng ta phải đổi mới từ quan niệm đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực. Cụ thể, nguồn nhân lực của xã hội được trọng dụng ở “năng lực” hay ở “khoa bảng”. Tâm lý có thi mới được học sẽ phải thay đổi bằng học để biết, học để làm…
Về hình thức và phương thức đánh giá nên tham khảo ở một số nước có nền giáo dục phát triển. Cụ thể như ở Úc, họ đưa vào chương trình giáo dục tự đánh giá cho học sinh ngay từ tiểu học để đào tạo con người biết tự đánh giá, trân trọng những gì mình đạt được và biết tự hoàn thiện những mặt chưa đạt theo mục tiêu đào tạo. Đồng thời góp phần tích cực trong việc tham gia thi cử nghiêm túc ở nhà trường. Còn ở Phần Lan, họ đã tổ chức cho phụ huynh cùng nhà trường đánh giá học sinh. Vừa tạo được sự thống nhất giữa nhà trường và gia đình về hệ thống giá trị, vừa nâng cao hiệu quả phối hợp giữa nhà trường và gia đình, giải quyết áp lực chủ quan của phụ huynh đối với nhà trường.
Nhược điểm của phương thức đánh giá ở nước ta trong thời gian qua là tiêu chí đánh giá và cách đánh giá không thoát ly mục tiêu đào tạo, dẫn đến cách dạy và học đối phó với thi cử không phục vụ tích cực yêu cầu dạy làm người.
“Một nền giáo dục không thể cao hơn trình độ giáo viên của nền giáo dục ấy” nên công tác đào tạo sư phạm và bồi dưỡng giáo viên đóng một vai trò rất quan trọng. Ở Phần Lan, mỗi giáo viên phổ thông là một thạc sĩ, sau 5 năm đào tạo để trở thành những nhà giáo thực thụ, không phải là “thợ dạy”. 5 năm này là thời gian để giáo viên thể nghiệm, thực hành, không phải học thuộc lòng, rập khuôn sách vở. Giáo viên Việt Nam, sau khi đào tạo ra trường, năng lực giáo dục nói chung, đặc biệt là giáo dục làm người còn nhiều giới hạn.
Bên cạnh hoạt động đào tạo giáo viên, công tác bồi dưỡng và tạo điều kiện cho giáo viên tự học là một việc làm tất yếu trong xã hội phát triển ngày nay. Công tác này phải quy định thành chế độ tu nghiệp có tính pháp lý, không chỉ là bồi dưỡng theo chu kỳ, đối phó, hình thức…
Kim Anh (lược ghi)
Hội nhập quốc tế về giáo dục trong điều kiện nước ta hiện nay là một vấn đề khó nhưng không phải không làm được và không thể không làm. Theo đó, chúng ta phải có kế hoạch cụ thể như chuẩn giáo viên, cơ chế tổ chức đánh giá… và lộ trình tích cực để cùng nhau thực hiện.
 

Bình luận (0)