|
Trong quá trình dạy – học cần có sự tương tác giữa GV và HS. Ảnh: Anh Khôi
|
Giáo dục học sinh (HS) theo đặc điểm riêng của nhân cách là một quá trình tương tác giữa người dạy và người học được đặt trong môi trường học tập cụ thể. Đây là điều kiện quan trọng đối với sự phát triển tư duy HS dựa trên các yếu tố của quy luật hình thành và phát triển nhân cách.
Trong thực tiễn giáo dục, giáo viên (GV) thường gặp một số dạng điển hình về thái độ và hành vi như: HS có phẩm chất nổi bật, ham học hỏi, cầu tiến… thì GV sẽ dễ dàng trong việc giúp các em tự giáo dục, rèn luyện để khắc phục những hạn chế trong học tập. Ngược lại, với những HS thờ ơ, thiếu tập trung, chậm tiếp thu… thì việc giáo dục và định hướng rất khó khăn. Khi đó, GV cần bình tĩnh, nghiêm túc đánh giá lại toàn bộ những tác động từ quá trình dạy và học, tránh áp đặt, can thiệp thô bạo đối với các em… Để quá trình dạy và học diễn ra thuận lợi, GV và HS cần chú ý những vấn đề sau:
1. GV phải lựa chọn phương pháp tiếp cận đúng đắn, làm cơ sở để nắm và hiểu biết sâu sắc, toàn diện nhân cách từng HS. Cụ thể, GV phải nắm những vấn đề mang tính quy luật trong quá trình dạy học dựa trên cơ sở những yếu tố, đặc điểm cơ bản của nhân cách để thúc đẩy quá trình phát triển tri thức của HS. Tạo động lực thúc đẩy nội tâm của HS:Trong việc học tập HS thường có óc tò mò và ưa thích khám phá, tìm tòi nhưng cũng có thể do những yếu tố tác động đến tâm lý làm ảnh hưởng đến cảm xúc gây ra trạng thái lo âu, nhút nhát, hồi hộp, ngại tiếp xúc, trầm cảm, tự kỷ… làm tiêu tan sự tự tin, tính ưa thích học tập. Trong thời điểm này, GV phải thể hiện thái độ tế nhị, khéo léo, không định kiến với những khuyết điểm, hạn chế của HS. Đặc biệt với những HS chậm tiến, cá biệt: GV nên gần gũi, có lòng vị tha, nghiêm khắc nhưng chân thành, thiện chí và tin tưởng vào khả năng tiến bộ của các em. Đồng thời GV nên tránh các hành vi, thái độ thiếu tôn trọng nhân cách, xúc phạm đến danh dự và nhân phẩm các em. Ngoài ra, GV nên tìm hiểu để hướng dẫn và khuyến khích những HS có hoàn cảnh đặc biệt từ bỏ mặc cảm để có thể phát triển động lực thúc đẩy nội tâm trong việc học tập như những em bình thường khác. Dựa vào đặc điểm khác biệt của HS:Trong quá trình học tậptrên cơ sở nghiên cứu đặc điểm của từng HS khác nhau mà GV xác định phương hướng, cách thức tác động giáo dục thích hợp đến từng cá nhân, nhóm HS. Cá nhân HS có khả năng tiếp nhận kiến thức khác nhau ở từng trường hợp cụ thể. Những khác biệt này nguyên nhân là do khác nhau về hoàn cảnh xã hội, truyền thống cũng như yếu tố bẩm sinh di truyền. Bên cạnh đó các em còn có những khác biệt về lứa tuổi, giới tính từ đó dẫn đến sự khác nhau về kinh nghiệm sống, về nhu cầu nguyện vọng, sở thích, tính cách, các quan hệ xã hội, chỉ số phát triển thông minh. Do đó, một trong những yêu cầu về năng lực sư phạm của GV là biết điều chỉnh tác động của các yếu tố môi trường, hoàn cảnh để định hướng có lợi trong giáo dục, điều chỉnh những lệch lạc của yếu tố sinh học để uốn nắn HS trong quá trình dạy học…
2. Để quá trình học tập đạt kết quả, các em HS cần có những khả năng cơ bản sau: Đầu tiên là khả năng tạo động lực thúc đẩy việc học tập. Quá trình phát triển các phẩm chất trí tuệ của HS được khuyến khích từ những bài tập, những vấn đề mà GV yêu cầu. Đồng thời, việc HS làm thêm các bài tập mới, bài tập nâng cao trong nội dung cơ bản của chương trình sách giáo khoa giúp các em mở rộng kiến thức, phát huy được năng lực của bản thân. Trên cơ sở đó, các em có cơ hội chọn lựa các đề tài và phương pháp học tập thích hợp với sở thích cá nhân giúp các em có khuynh hướng phát triển tư duy về các vấn đề nghiên cứu phức tạp trong môi trường học tập. Nếu HS rèn luyện cách học có phương pháp, có kỹ năng tự học, biết vận dụng linh hoạt những kiến thức đã học vào các tình huống thực tế, biết tự lập phát hiện vấn đề, đặt ra và giải quyết những vấn đề trong thực tiễn thì sẽ tạo động cơ học tập, khơi dậy những tiềm năng vốn có của các em. Bên cạnh đó, các em nên tự đánh giá và tham gia đánh giá cùng GV về những điểm mạnh, điểm yếu từ đó định hướng phát triển và khắc phục có hiệu quả. Thứ hai là khả năng chịu đựng và tạo cơ hội học tập. Sự phát triển tư duy trong học tập của HS trải qua nhiều giai đoạn và phải vận dụng sức chịu đựng từ thể chất đến tinh thần cùng với sự thích nghi của các điều kiện ngoại cảnh khác để tạo cho các em cơ hội học tập tiến bộ. Việc các em học tập với lịch học dày, cường độ hoạt động liên tục, đối mặt với các bài tập khó, tâm lý nặng nề trước các kỳ thi, giới hạn tình hình sức khỏe, bất lợi của thời tiết và tác động của những hoàn cảnh xã hội khác… ít nhiều ảnh hưởng đết kết quả học tập. Trong quá trình học tập, tiếp thu kiến thức các em cần xác định những yêu cầu đặt ra và phải nâng dần từng bước từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Bên cạnh đó, HS phải thường xuyên bổ sung kiến thức kịp thời cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của tư duy, khắc phục những khuynh hướng hạ thấp hoặc đề ra yêu cầu quá cao… Thứ ba là khả năng chấp nhận hoàn cảnh, tự trọng và học tập. Các em có thể học tập trong một môi trường không thuận lợi, cơ sở vật chất còn nghèo nàn và thiếu thốn, sách giáo khoa hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, phương tiện đi lại bất cập… nhưng các em biết khắc phục và vươn lên trong học tập ngang bằng về tri thức với lòng tự trọng và ý thức tự lực của bản thân. Nếu các em biết chủ động và cải tạo hoàn cảnh, thích nghi được sự tác động của các yếu tố giáo dục, tự giáo dục và của hoạt động thực tiễn thì quá trình hình thành tri thức và nhân cách sẽ thuận lợi hơn. Hơn thế nữa, con đường học tập và hình thành nhân cách không chỉ xảy ra trong nhà trường mà còn xảy ra trong những môi trường, không gian đa dạng nên HS có thể tự học tập và tiến bộ bằng nhiều phương thức khác nhau nếu các em biết chấp nhận và cải tạo hoàn cảnh.
ThS. Nguyễn Minh Trung (ĐH Nguyễn Huệ)
|
Phương pháp dạy – học nào cũng có ưu điểm và hạn chế
GV cần linh hoạt kết hợp, vận dụng giáo dục tri thức trên cơ sở tôn trọng đặc điểm riêng của nhân cách với từng đối tượng HS vào từng thời điểm, hoàn cảnh thích hợp. Bởi GV là người kết nối, xâu chuỗi ứng dụng nhiều phương pháp giảng dạy trong những tình huống, bài giảng cụ thể. Đồng thời là người khơi nguồn, tôn trọng và thúc đẩy cái tốt, tích cực tạo cơ hội giúp HS vượt qua hoàn cảnh để vươn tới những phẩm chất cao đẹp bằng sự tu dưỡng, rèn luyện của chính bản thân.
|


Bình luận (0)