Sự kiện giáo dụcPhóng sự - Ký sự

Gieo chữ nơi chóp núi

Tạp Chí Giáo Dục

Chủ nhật, tôi theo giáo viên Trường trung học cơ sở Trà Linh (thôn 3, xã Trà Linh, huyện Nam Trà My, Quảng Nam) về xuôi thăm nhà trở lại công tác. Xuất phát từ sáng sớm, áo quần tinh tươm nhưng chiều tối tới nơi thì bẩn thỉu, bùn đất. “Sao không bỏ xe ở Tắk Pỏ đi xe ôm lên cho khỏe”. Một giáo viên hỏi khi thấy bộ dạng của tôi, với cái áo thì rách, cái quần lấm lem. “Mưa như ri xe ôm có đi không?” – tôi trả lời. Nhóm giáo viên đồng thanh cười. Anh Yên, người chung chuyến đi, nói nhỏ: “Anh em đùa đấy, đi thì xe ôm vẫn đi nhưng 30 km khứ hồi từ Tắk Pỏ tới đây mất một triệu, có tiền đi nổi không?".

Ngôi trường bằng gỗ ở Nam Trà My, Quảng Nam.  

Cuối tháng chín, sương mù từ dãy Ngọc Linh lãng đãng xuống thôn nóc. Chỉ hơn 100 mét mà đứng bên này nhà nội trú nhìn sang trường còn không thấy rõ. Bữa cơm đạm bạc sương cũng lùa vào bàn. Hai cái ghế không dài thêm để 15 con người ngồi đủ. Người thì vừa đứng vừa ăn, người thì co ro trên ghế, co ro bên bếp lửa sát cạnh. Bữa ăn toàn thứ rau gì đó chấm với mắm cái. Chưa hết kinh hoàng với chuyến đi, tôi buông một câu thừa thãi: “Đường xá như rứa chắc anh em cũng nhác về quê hỉ?”. “Vài tháng về một lần”. “Còn đỡ đấy, chứ ba năm trước tuyến liên xã Nam – Linh chưa thi công thì phải lội bộ từ Tắk Pỏ tới đây, toàn băng rừng với suối”. “Đỡ chi mà đỡ, băng rừng băng suối mà còn an toàn chứ đường chi làm hơn ba năm chưa xong, mưa xuống là lầy lội, sạt lở, đi xe cháy côn, rớt xuống vực hồi mô không biết” – Những câu trả lời nối tiếp.
Đêm ấy, tôi ngủ một giấc li bì. Tỉnh giấc, nghe chim rừng líu lo hòa thanh cùng tiếng cười nói của học sinh bên trường vọng sang nhà nội trú. Giáo viên đã đi dạy, học sinh đã đến lớp. Anh Nguyễn Đình Thắng, phó hiệu trưởng, dẫn tôi qua trường. Ngôi trường làm bằng gỗ với sáu lớp học. Theo anh Thắng, đây là ngôi trường gỗ duy nhất ở Nam Trà My và là ngôi trường cấp trung học làm bằng gỗ duy nhất ở Quảng Nam. Đầu năm nay, trường được tu sửa, nhưng chỉ láng xi-măng phần nền, còn lại vẫn cứ là gỗ. Năm ngoái, ngân hàng Công thương có liên hệ với Phòng Giáo dục – Đào tạo huyện ngỏ ý hỗ trợ kinh phí cho xây trường, nhưng vì đường xá không thể chuyển vật liệu lên cho nên kinh phí kia được chuyển về xây trường bên Trà Don. 221 học sinh của trường toàn là con em người Xê Đăng. Tôi nhìn vào lớp học, quần các em lấm lem bùn đất. Anh Thắng bảo, học sinh của anh từ nhỏ băng rừng lội suối đã quen cho nên đi học không biết mệt, nhưng vất vả. Bất luận mưa nắng, một học sinh từ nhà đến trường ít nhất phải mất hai tiếng một lượt, cho nên phải dậy thật sớm. Tan buổi học, tôi bám theo một nhóm học sinh tới chỗ con dốc dựng đứng cạnh cái cầu treo gần trường. Học sinh Hồ Văn Đuôi, lớp 6/2, nhà ở tận nóc Cang Cít thôn một, trả lời khi tôi hỏi có sợ không khi leo con dốc này, rằng: “không”. Nhưng nhìn con dốc trơn tuột, một bên là cái vực lởm chởm đá, dáng trẻ vẫn vô tư loắt choắt mà thấy rợn người.
Bữa cơm trưa hôm ấy có thêm mấy con cá ngừ, nhưng đỏ lòm, lở lói. Hàng từ xuôi lên đây có cái gì còn ngon. Mà đắt nữa, như một kg gạo Tư Hoảnh ở xuôi có giá 14 nghìn thì lên đây gần 20 nghìn. Cái gì cũng đắt, thành ra, như lời mấy anh chị, trung bình lương của mỗi người là bốn triệu/tháng, nhưng tiền ăn, tiêu vặt chiếm gần nửa. Tôi hỏi về thứ rau lạ lạ trên bàn ăn, được biết đó là rau lủi, thứ rau rừng, là thức ăn “trường kỳ kháng chiến” ở đây.
Cả buổi chiều, ngồi bên bếp lửa với những giáo viên không có giờ lên lớp, tôi được nghe các anh chị tâm sự. Rằng, ở đây giáo viên phải lội bộ mấy cây số trong một ngày để kiếm củi nấu cơm. Rằng, cách đây hai năm thì điện ở đây không có, đèn dầu thắp tù mù; rồi thì có điện, được huyện hỗ trợ mua dàn máy vi tính, mua ti-vi tiếp sóng chảo Pa-ra-bôn. Rằng, ở đây là chỗ cao nhất Quảng Nam, “ngó xuống thấy chúng sinh” nhưng thông tin về “chúng sinh” thì thiếu hụt, chỉ nhờ được cái ti-vi; còn lại vẫn “ba không”: không in-tơ-nét, không báo, không trạm viễn thông. Năm nay được huyện hỗ trợ công trình nước tự chảy, đỡ hơn năm ngoái phải múc nước suối để uống.
Rồi là chuyện tình yêu. Anh Linh, 34 tuổi, người lớn tuổi nhất ở đây, nói: “Tình yêu giáo viên dưới xuôi thì muôn hình muôn vẻ, còn ở đây thì tuân theo một quy luật: giáo viên nam nữ dạy cùng trường rồi yêu nhau, lấy nhau”. 14 giáo viên ở đây (không kể hiệu trưởng, đã đi công tác dài ngày): 11 người đã có gia đình, đều tuân theo cái “quy luật” trên. Có gia đình làm nhà định cư gần trường, có gia đình vợ hoặc chồng chuyển công tác, chịu cảnh cách xa. Bốn người còn lại thì có một cặp đang yêu, và hai giáo viên nam đang bơ vơ; đang trăn trở như lời nói của một trong hai người này: “Ở đây hết giáo viên nữ cô đơn rồi, biết khi nào tụi này có người yêu”.
Đêm xuống. Trời mưa. Bữa ăn được dọn ra với mấy món ăn và cảnh tượng ăn “co ro” cũng giống hồi trưa.
Tôi ở đây một tuần, thời gian đủ để thấm nỗi vất vả của những người đi gieo chữ trên đỉnh núi.
Theo THIÊN LÝ
(NDDT)

Bình luận (0)