Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Góc nhìn khác về bài đồng dao “mèo chuột”

Tạp Chí Giáo Dục

Đng dao – mt b phn ca ca dao, là thơ ca dân gian truyn ming ca tr em. Vi ranh gii mang tính tương đi, đng dao bao gm nhiu th loi: các bài hát vui ca tr em, li hát trong các trò chơi, bài hát ru em, câu đ vui tr em… Trong đó, quen thuc nht là các bài đng dao gn lin vi nhng trò chơi ca tr em, va hát va chơi – va chơi va hát.

Bài đng dao quen thuc

Bài đồng dao “Con mèo mà trèo…” hết sức quen thuộc mà bao thế hệ người Việt từng được nghe bà, nghe mẹ hát ru và thuộc lòng từ thuở nằm nôi, đã được ghi lại trong sách giáo khoa: “Con mèo mà trèo cây cau/ Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà/ Chú chuột đi chợ đàng xa/ Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo!” (nguồn SGK Ngữ văn 7, trang 53, tập I – NXB Giáo dục, 2007)

Như các bài đồng dao trong những trò chơi trẻ em ở mọi miền trên đất nước đều có nội dung khá giống nhau, bài “Con mèo mà trèo…” lưu truyền ở các vùng cũng chỉ khác biệt nhau một vài từ/ tiếng địa phương mà thôi. “Con/ (chú) mèo mà/ (mày) trèo cây cau/ Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà/ Chú chuột đi chợ đàng/ (đường/ đồng) xa/ Mua mắm mua muối giỗ cha con/ (chú) mèo!”.

Dễ dàng nhận thấy, bài đồng dao “Con mèo mà trèo cây cau” này nằm trong hệ thống các bài ca dân gian có cùng mô-típ câu mở đầu theo cấu trúc quen thuộc [chủ thể – “mà” – vị thể] như: Con kiến mà leo cành đa…/ Con cò mà đi ăn đêm…/ Cái kiến mà kiện củ khoai… Bài đồng dao đối đáp này có thể tạm xác định hai phần hỏi – đáp rõ rệt: – Con mèo mà trèo cây cau/ Hỏi thăm chú chuột đi đâu vắng nhà. – Chú chuột đi chợ đàng xa/ Mua mắm mua muối giỗ cha con mèo!

Hai nhân vật cũng được xác định rõ và nhắc đi nhắc lại trong bài đồng dao, với từ xưng hô phân biệt: chú chuột và con mèo. Tuy chỉ gồm 4 câu ngắn gọn, cô đúc, bài đồng dao đã gây băn khoăn, thắc mắc cho người đọc từ bao đời nay.

Nhiu băn khoăn, suy ngm

Mèo là một trong những con vật nuôi gần gũi, thân thiết của con người. Mèo còn giúp con người bắt chuột, hạn chế những thiệt hại do chuột gây ra. Còn chuột, ai cũng biết, là loài phá hoại, đáng ghét. Trong đời sống mèo là kẻ thù truyền kiếp, không đội trời chung với chuột, có tập tính bắt chuột để ăn thịt. Quan hệ giữa chúng là mối quan hệ nước lửa, loại trừ, sống còn. Khá nhiều băn khoăn nảy sinh trong bao thế hệ người đọc khi tiếp xúc với bài đồng dao, như: Chuột có làm tổ trên cây cau? Mèo có ăn mắm muối? Nhân vật nào hỏi và trả lời? Và băn khoăn bao trùm nhất chính là ý nghĩa của bài đồng dao là gì?

nh: SGK Ng văn 7

Có ý kiến cho rằng: Bài đồng dao phản ánh sự giả tạo của con mèo và sự khôn ngoan của con chuột. Ý hàm ngôn là trong xã hội còn kẻ mạnh ức hiếp người yếu, và kẻ mạnh thường ngụy trang tinh vi bằng bộ mặt giả nhân giả nghĩa. Bài ca dao toát lên một tiếng kêu công lý, một tiếng cười thông minh, sắc sảo như một màn kịch ngắn hấp dẫn và thú vị, kết thúc bằng câu chửi gằn giọng độc địa của chú chuột “cha con mèo”! Ý kiến khác lại cho rằng: Chú chuột đã “chơi khăm” con mèo thông qua tuyên bố “giỗ cha con mèo” bằng mắm với muối, thực chất là nhằm nguyền rủa dòng họ nhà mèo.

Cách dùng từ “hỏi thăm”, “chú chuột” nói lên sự dối trá, tinh quái của mèo. Nhưng chú chuột tinh khôn, láu lỉnh không dễ bị đánh lừa, lại nói kháy mèo cho bõ ghét, cho hả giận! “Đi chợ đàng xa”, nghĩa là chuột muốn nói với mèo rằng mình đã cao chạy xa bay rồi, không tóm được đâu! Mèo tinh quái nhưng chuột còn tinh ranh hơn. Kết cuộc là cảnh chú chuột nhỏ bé tinh khôn đã thắng lão mèo to xác hung dữ – một kết thúc có hậu.

Thêm một góc nhìn khác: Chẳng hề có chuyện mèo chuột ở đây, mà chính là chuyện con người. Bài đồng dao mách nước cho kẻ yếu cách ứng xử với kẻ mạnh; chuột khôn khéo, mềm mỏng đáp lại sự “ân cần hỏi han” của mèo để cầu sự bình an theo phương châm “Mạnh dùng sức, yếu dùng chước”.

Thun túy ch là mt bài đng dao

Ở các làng quê Việt Nam, chúng ta thường thấy cảnh “con mèo trèo cây cau” mài vuốt theo tập tính sinh vật thông thường của nó. Mượn hình ảnh ngộ nghĩnh đó, tác giả dân gian đã sáng tác nên bài đồng dao vui vẻ, sinh động mà trong đó, hai nhân vật mèo – chuột trở thành đôi bạn thân thiết, sống biết quan tâm đến nhau. Trong bài đồng dao, với những hình ảnh đẹp, không còn mối quan hệ đối nghịch sống chết giữa mèo và chuột, mà trở thành câu chuyện cảm động trong thế giới tâm hồn trẻ thơ hồn nhiên qua nhiều thế hệ. Qua “đôi mắt xanh non” của trẻ em, đôi bạn mèo – chuột hiện lên chan hòa tình bằng hữu thân thiện, nhân hậu. Tác giả dân gian đã rất có lý khi quan niệm rằng chưa nên gieo vào đầu óc trẻ thơ chuyện thù hằn, giết chóc lẫn nhau giữa muôn loài, mà hãy nên nuôi dưỡng tình cảm nhân hậu, yêu thương, nghĩa tình trong đầu óc trẻ.

Ngun internet

Rõ ràng, bài đồng dao này đưa ra một bài học cho trẻ em về lòng nhân ái, chung sống hòa bình, chưa biết đến hận thù giữa muôn loài. Lời lẽ dung dị, dễ hiểu, không triết lý cao siêu, nhưng gói ghém tình ý rất sâu sắc; không phải chỉ để ru em, mà còn nhằm cho người lớn suy ngẫm để giáo huấn con cháu. Văn hóa thế giới cũng không thiếu những con chuột nổi tiếng từ bao lâu nay. Đó là chú chuột Mickey, hay như cặp Tom & Jerry trên phim ảnh thiếu nhi; chúng không hề đối kháng sống – chết mà chỉ vui đùa, hóm hỉnh, nghịch ngợm, chung sống hòa bình, được cả trẻ em lẫn người lớn yêu thích. Chúng tôi thiên về quan điểm đây chỉ là một bài đồng dao thuần túy, nhằm cung cấp cho trẻ em những hiểu biết thường thức từ gần đến xa, từ cụ thể đến trừu tượng, trong buổi đầu các em làm quen, tiếp xúc với các sự vật, hiện tượng tự nhiên và xã hội xung quanh mình, qua lời hát ru của bà, của mẹ, tương tự như các bài hát ru khác: “Con mèo con chuột có lông/ Cây tre có mắt, nồi đồng có quai” hay bài “Con gà cục tác lá chanh…”, “Thằng Cuội ngồi gốc cây đa…”… Về mặt nghệ thuật, bài đồng dao ngắn gọn “Con mèo mà trèo cây cau” tái hiện một màn hoạt cảnh sinh động, tự nhiên, dễ nhớ, dễ thuộc.

Trẻ em tìm thấy trong bài nhiều tri thức thường thức cùng một mẩu chuyện vui, hấp dẫn về những con vật quen thuộc; người lớn cũng cảm nhận từ bài đồng dao triết lý nhẹ nhàng, giàu tính nhân văn của ông cha mình. Chính vì vậy mà bài đồng dao này được cả trẻ em và người lớn đều nhớ, đều thuộc; được truyền tụng trong dân gian từ đời này sang đời khác và sẽ còn được lưu truyền mãi.

Đ Thành Dương

 

Bình luận (0)