GS. TSKH Nguyễn Thị Lê – Giải thưởng Kovalevskaya về khoa học và kỹ thuật. |
Kỳ I: Tuổi 20 và những hoài bão khoa học
Chứng bệnh bí hiểm của chú bé Sìn Hồ
Năm 2006, Viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới (nơi được dư luận trong nước và thế giới biết tới vì đã chữa khỏi bệnh SARS hiểm nghèo) nhận được một bệnh nhi từ huyện vùng cao Sìn Hồ (Lai Châu) chuyển về. Triệu chứng giống hệt bệnh lao phổi: tức ngực, khó thở, sốt cao, sụt cân nhanh… Chú bé được nghỉ ngơi, bồi dưỡng và dùng các thứ thuốc đặc hiệu chống lao như streptomicin, rimifon… nhưng bệnh vẫn không thuyên giảm! Sao thế nhỉ?
Bệnh viện thử đờm, không phát hiện được trực khuẩn Koch, qua kính hiển vi, chỉ thấy trong đờm có những hạt trắng, nhỏ li ti như hạt cát – trứng sán lá. Viện bèn cử một nhóm bác sĩ, đồng thời, mời GS Nguyễn Thị Lê, Chủ tịch Hội Ký sinh trùng học Việt Nam, và vài ba cán bộ Phòng Ký sinh trùng học (thuộc Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) cùng đi lên mấy tỉnh miền núi Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, Hòa Bình… để làm rõ nguyên nhân căn bệnh bí hiểm nói trên.
Đến vùng cao, lội dọc theo dòng suối xiết, chị Lê và các đồng nghiệp trẻ tìm bắt những con cua suối giấu mình trong hốc đá, thân hình trông tựa như con cua đồng dưới xuôi (vẫn được người dân đồng bằng bắt, giã, nấu riêu cua). Khó khăn đầu tiên là xác định tên khoa học (hay còn gọi là tên Latin) của loài cua suối ấy và cả loài sán lá ký sinh. Điều này đòi hỏi phải có hiểu biết của các chuyên gia sinh học như GS Nguyễn Thị Lê và đám học trò của chị. Tên Latin của loài cua suối ấy là Potamiscus tannanti – con vật chủ mà loài sán lá sống nhờ. Mỗi con cua suối chứa khoảng 400-500 nang sán lá trong mang, trong gạch và cả trong chân, càng!
Phổi chú bé bị sán lá đục ruỗng từng mảng
Người dân các tỉnh đồng bằng sông Hồng như Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, từ lâu, đã có thói quen ăn gỏi cá mè, cá chép, hay thịt bò, thịt bê bóp giấm, vắt chanh. Từ Bình Định trở vào, nhiều người lại thích ăn món gỏi cá giếc đang bơi. Thế là nuốt theo vào người cả nang sán lá! Rồi mắc phải chứng bệnh sán lá gan quái ác… |
Trời rét căm căm. Mấy chú bé áo chàm thả rông trâu bên bờ, rồi lội bắt cua suối, ngồi quây tròn quanh đống lửa, nướng ăn. Trông thấy lớp vỏ cua cháy sém, đỏ quạch, mấy chú tưởng cua đã chín, thế là xé thân, bẻ càng, chia nhau chấm muối ớt, nhai lạo sạo ngon lành! Đâu có biết hàng nghìn nang sán lá, chưa kịp chết trong đám cua kia, sau khi chui vào cơ thể các chú, liền theo đường máu tới khu trú tại hai lá phổi, rồi lớn lên rất nhanh, gây ra chứng bệnh chết người – bệnh sán lá phổi! Bác sĩ phải mổ banh phổi, cắt bỏ những chỗ phổi bị sán đục ruỗng nát để cứu sống chú bé Sín Hồ!…
Rất may, trong loài cua đồng ở miền xuôi không có nang sán lá phổi như loài cua suối. Cho nên, ta không đến nỗi phải lo khi chén món bún riêu "đặc sản" ngon lành trên hè phố Hà Nội.
Bên cạnh chứng sán lá phổi vừa nói, thì chứng sán lá gan cũng nguy hiểm chẳng kém. Nguyên nhân là do ăn gỏi cá, rau sống hay thịt chưa nấu chín có chứa nang sán lá. Người dân các tỉnh Đồng bằng sông Hồng như Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, từ lâu, đã có thói quen ăn gỏi cá mè, cá chép, hay thịt bò, thịt bê bóp giấm, vắt chanh. Từ Bình Định trở vào, nhiều người lại thích ăn món gỏi cá giếc đang bơi. Thế là nuốt theo vào người cả nang sán lá! Rồi mắc phải chứng bệnh sán lá gan quái ác.
GS Nguyễn Thị Lê nói:
– Tôi đang cùng một giáo sư người Nhật Bản ở Đại học Miyazaki trên đảo Kyushu hướng dẫn anh Phạm Ngọc Doanh viết luận án Tiến sĩ về sán lá. Anh Doanh lúc thì sang Miyazaki làm việc với thầy Nhật Bản, khi thì trở về Hà Nội hỏi ý kiến tôi. Vừa khám phá cho khoa học một loài sán lá mới, nhưng anh phải giữ kín cho tới khi công bố, có lẽ chỉ trong năm nay thôi…
Không ít học trò của GS Nguyễn Thị Lê đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ.
Con gái một cán bộ nằm vùng trong Nam
GS, TSKH Nguyễn Thị Lê sinh ngày 28-12-1939 tại xã Tam Nghĩa, huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
Người con gái một gia đình cách mạng đất Quảng ấy, mới ngày nào, vào độ tuổi trăng tròn lẻ, rời quê hương ra Bắc tập kết, nay đã ở tuổi… "cổ lai hy"!
Về người cha của mình, có lần chị Lê kể với tôi:
– Ít ai ngờ cha tôi sống quá tuổi chín mươi. Đời ông cực lắm! Tôi không biết rõ ông bắt đầu hoạt động cách mạng từ bao giờ, chỉ còn nhớ, năm tôi lên ba, mẹ con tôi khóc thét lên khi ông bị còng tay, đưa ra nhà tù Lao Bảo ngoài Quảng Trị. Chẳng bao lâu sau, nghe nói ông vượt ngục, bí mật trở lại Quảng Nam, rồi tham gia khởi nghĩa giành chính quyền ở huyện Thăng Bình. Thời kháng chiến chống Pháp, ông là Tỉnh uỷ viên phụ trách Nông hội. Mẹ tôi làm công tác phụ vận…
– Năm 1954, chị cùng cha mẹ tập kết ra Bắc? – Tôi hỏi.
– Không, chỉ một mình tôi ra Bắc! Cha mẹ tôi vẫn ở lại trong Nam, nằm hầm, nằm bụi, cố giữ vững phong trào. Mãi tới năm 1960, cha con tôi mới gặp nhau tại Hà Nội. Ông tham gia Đoàn Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam bí mật ra Bắc dự Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ Ba. Lúc bấy giờ, tôi vừa bước sang tuổi 20, đã tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Hà Nội, được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy. Thấy tôi học hành khấm khá, cha tôi mừng lắm. "Ba má chẳng chăm sóc được con – ông nói. Con thành đạt là nhờ cách mạng, nhờ Đảng. Rồi đây, dù vật đổi sao dời, con cũng không được quên ơn đó!" Sau Đại hội, cha tôi trở lại miền Nam, góp phần vực dậy phong trào đang suy yếu do bị địch khủng bố đẫm máu. Lần nhận tin ông đã hy sinh, tôi khóc sưng cả mắt. Nhưng rồi, sau đó, bỗng nhận được thư ông dặn dò tôi phải kiên định trước tình hình quốc tế đang diễn biến phức tạp: "Thế cuộc cho dù còn tráo trở/ Là người cách mạng phải xông pha". Ông không quên làm "công tác tư tưởng" cho tôi. Đó là những năm 1960-1972 đầy xáo động ở Liên Xô, Trung Quốc, chắc anh còn nhớ?…
Lặn lội khắp núi rừng Tây Bắc, Việt Bắc
Những năm tuổi hai mươi sôi nổi, ngoài thời gian làm việc tại Khoa Sinh học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, chị Lê thường cùng GS Đào Văn Tiến và các cán bộ trong khoa đi về các địa phương điều tra chim, thú, và ký sinh trùng. GS Tiến chú ý các loài thú nhỏ. Anh Đặng Ngọc Thanh (sau này, làm Phó Viện trưởng Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) quan tâm đến các động vật không xương sống ở nước ngọt (tôm, cua và loài thân mềm). Anh Võ Quý (về sau, là Chủ nhiệm Khoa Sinh học) sưu tầm các mẫu vật về chim. Còn chị Lê thì lo tìm các loài ký sinh trùng, sán lá. Như vậy là, sau khi tốt nghiệp Cử nhân, được sự dìu dắt của GS Tiến, chị bắt tay ngay vào việc tìm tòi cái mới cho khoa học, chứ không chỉ đơn thuần tích luỹ kiến thức.
Những chuyến đi vất vả nhưng thật là thú vị. Chị đặt chân lên đỉnh đèo Phạ Đin, nơi gặp gỡ giữa đất và trời (trong tiếng Thái, phạ là đất, đin là trời), ngắm cánh đồng Mường Thanh lúa chín rực vàng, nghỉ đêm trong doanh trại bộ đội, rồi ngược Lai Châu, dừng lại ít ngày ở Phố Núi. Chị cũng dạo qua vùng Lạng Sơn, theo hai bờ sông Kỳ Cùng nước xíêt, vượt Na Sầm, Thất Khê, Đông Khê lên Cao Bằng…
Hôm đó, đoàn điều tra đi theo hướng Thái Nguyên – Bắc Cạn, và dừng lại ở hồ Ba Bể. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp tuyệt vời. Nào là hang, động, đường luồn, suối, thác, sông ngầm. Nào là vách núi dựng đứng như thành vại, xóm chài nép mình bên bờ con sông Năng cây cối um tùm. Rồi những hòn đảo nhỏ nhô lên giữa hồ, mang những cái tên mộc mạc: Hòn Trống, Hòn Mái, Hòn Chuồng Gà…
Đoàn khảo sát nghỉ đêm trong nhà đồng bào Tày. Sáng, chị Lê theo GS Tiến và các anh xách súng đi săn. Chị là một xạ thủ có hạng, đã từng đoạt giải nhất nữ của 5 trường đại học về môn xạ kích. Chiều, cả đoàn ngồi định loại các con thú, con chim vừa bắn được.
Sau đó, mới thật sự bắt đầu công việc của chị Lê: mổ thịt và các nội quan của các con vật để tìm các loài sán lá ký sinh. Trông chúng nhỏ lấm tấm như những hạt gạo, thon, nhọn, mảnh như chiếc lá bé tí ti. Phải soi kính lúp mới thấy rõ. Loài sán quái ác ấy thường sống bám vào thành ruột, sống gửi trong thận, gan, ruột non, hay túi mật con vật chủ. Cũng có khi chúng ẩn náu dưới mi mắt, ở các khớp xương, trong xoang mũi, cơ não…
Nhiều đêm, sau khi GS Tiến và các anh trong đoàn đã ngủ cả rồi, chị vẫn còn chong đèn ngồi mổ rã cả tay – cả đoàn chỉ có mỗi mình chị là nữ. Nếu để đến mai, chim, thú sẽ ươn có mùi.
(Còn nữa)
Hàm Châu (Theo Dân trí)
Bình luận (0)