Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

“Hậu phương” của những giải thưởng UPU

Tạp Chí Giáo Dục

Cô Phạm Thị Phong (bìa phải) cùng học trò Đào Thụy Thùy Dương nhận giải thưởng UPU tại Hà Nội (tháng 4-2013)
Sáu năm trở lại đây, Trường THCS Tây Sơn (Q.Hải Châu, Đà Nẵng) liên tiếp nhận được 11 giải thưởng về viết thư quốc tế UPU. Học trò của trường cũng đạt nhiều giải thưởng cao trong các kì thi môn văn cấp quận, thành phố… Tuy nhiên, ít ai biết rằng, có một cô giáo luôn lặng lẽ dõi theo các em, thổi hồn cho bao thế hệ học trò tình yêu môn văn. Đó là cô Phạm Thị Phong – Tổ trưởng bộ môn văn của trường.
Duyên với nghề giáo
Việc học trò Trường THCS Tây Sơn giỏi văn vào hạng nhất nhì thành phố tầm 5 năm trở lại đây đã không còn xa lạ với nhiều người, đặc biệt là các bậc phụ huynh. Chúng tôi có cái hẹn với các giáo viên trong tổ văn cũng không ngoài mục đích thử một lần mục sở thị “hậu phương” vững chắc của những giải thưởng danh giá được khắp nơi biết đến, thán phục. “Cô Phong – Tổ trưởng bộ môn văn – nhiều năm liền là giáo viên dạy giỏi của trường, cũng là người truyền lửa cho những nhân tài tham gia giải viết thư quốc tế UPU đấy!”, lời giới thiệu của cô Hồ Thị Bích Trâm – Hiệu trưởng nhà trường – nhân đôi trí tưởng tượng của chúng tôi về một cô giáo giàu tình yêu văn học và nhiệt huyết với học trò. Quả thật, được tiếp xúc với cô mới vỡ lẽ ra rằng, bên trong phong thái bình dị của một cô giáo bước qua cái tuổi 54 ấy là cả một kho tàng tri thức nhân văn về con người, cuộc sống.
Cái duyên đưa cô Phong đến nghề giáo cũng thật tình cờ. Ngày đó cô đam mê dịch sách. Cô chọn Trường ĐH Tổng hợp, Khoa Văn nhưng rồi một sự cố ngoài mong đợi khiến cô lỡ hẹn với đam mê. Sau đó cô được gọi vào Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Đắn đo thật nhiều bởi nghề sư phạm hồi đó được xem là… “chuột chạy cùng sào”. Dĩ nhiên không ai muốn mình lâm vào cảnh cùng sào ấy, nhất là với cô – một trong 6 gương mặt giỏi văn của miền Bắc thời bấy giờ. Nhưng rồi cô nghĩ lại, sinh ra trong gia đình có truyền thống nho học, cả ông nội, ba và chị gái vẫn sống với nghiệp phấn trắng bảng đen nên cô cũng chọn nó dù chưa thật sự hài lòng. Thời ấy gia cảnh cũng khó khăn nên cô không vào ĐH Sư phạm Hà Nội mà chọn CĐ Sư phạm Thái Bình – quê của cô. Tốt nghiệp ra trường bước vào nghề dạy học từ năm 1981. Đến năm 1994, cô chuyển công tác vào Đà Nẵng. 33 năm đứng trên bục giảng, cô đều là Tổ trưởng bộ môn văn. Cô Phong bảo, nghề giáo gắn bó với cô đã thành máu thịt. Bởi thế, nhiều lần được đề bạt làm quản lý cô vẫn từ chối. Vì làm người giáo viên sẽ gần gũi hơn, và có điều kiện truyền đạt kiến thức, tâm huyết của mình đến với học trò. Cô luôn ghi nhớ câu ngạn ngữ mà bố từng đọc cho nghe ngày cô quyết định chọn nghề sư phạm để làm cái nghiệp đời mình: “Con làm sao dạy được nó, nếu nó không yêu con”. Có lẽ từ phương châm ấy, bao nhiêu thế hệ học trò đều yêu mến cô không chỉ bằng tình yêu đối với cô giáo mà còn là tình yêu đối với mẹ hiền.
Dạy học là sáng tạo
Có một lần khi cô đang trên đường đi dạy về giữa trưa nắng chang chang, một cậu học trò nhào ra đường chặn xe cô lại. Cậu bé ấy ấp úng mời cô giáo vào quán nước giải khát. Đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì, cậu thưa: “Con muốn cám ơn cô vì con đạt điểm 6. Bao lâu nay con có cố gắng thế nào cũng chỉ được điểm 5, bởi một lí do đơn giản là chữ con quá xấu. Chỉ có cô chịu khó đọc, hiểu được ý văn con viết”. “Đấy, nghề đi dạy của chúng tôi đôi khi niềm vui nó đơn giản đến thế”, cô Phong mỉm cười nói.
Ngót nửa đời người lặng lẽ với nghiệp đưa đò, cô Phong luôn tâm niệm: “Đã gọi là học hành thì dù ở bất cứ môn nào cũng cần có sự sáng tạo. Sự khuôn mẫu sẽ giết chết niềm say mê sáng tạo và chính nó chứ không phải bất kì điều gì khác sẽ làm khô mòn cảm xúc. Một khi con người trơ ra trước cảm xúc thì không còn là nhân văn”. Vì vậy, bên cạnh nội dung chính của sách giáo khoa, phương pháp giảng dạy của cô là tôn trọng từng ý tưởng sáng tạo, thổi hồn cho các em tìm ra cái mới, cái hay. “Điều trước tiên của một người giáo viên là hướng cho các em cảm nhận cuộc sống một cách chân thực nhất. Mặt khác phải tôn trọng học trò vì chính các em mới là chủ thể sáng tạo”, cô Phong nói. Cô không ngần ngại những nét chữ xấu, cô chỉ ngại những trò lười suy nghĩ cứ chép bài theo một khuôn mẫu định sẵn trong sách tham khảo. Cô rất nghiêm khắc trong việc chấm bài. Có nhiều em viết rất hay nhưng chỉ là chép lại văn mẫu, cô nhẹ nhàng bảo các em hãy tả một cách chân thực nhất. Chẳng hạn như đề tài tả về người mẹ, trước khi ra đề cô còn dặn thêm, các em phải tả về mẹ mình bằng tình cảm của một người con. Không phải ai cũng có mẹ làm ở sở này sở nọ, nhiều bà mẹ phải lao động cật lực ngoài đồng ruộng, bên hè phố nhưng chính cái lam lũ ấy đã là một nét đẹp. Nhờ đó, nhiều bài văn của các em thực sự làm người đọc cảm động.
Cách đây 5 năm khi phương pháp intel bắt đầu được biết đến, cô Phong là một trong những giáo viên được tham gia tập huấn và áp dụng thực tiễn ngay tại lớp học. “Đây là một phương pháp học sinh sắm vai diễn hay. Bài học nhờ đó tác động sâu sắc đến tâm tư tình cảm cũng như trí nhớ của học trò”. Những lá thư UPU quốc tế hay những giải văn nhất nhì thành phố và cả những giải Liên hoan phim châu Á dành cho tuổi học trò mấy năm trở lại đây mà cô trò trường này đạt được cũng xuất phát từ phương pháp này.
Chia tay, chúng tôi vô tình được biết chỉ còn hơn tháng nữa là cô Phong sẽ nghỉ hưu, thầm tiếc cho các em học trò. Như hiểu được tâm tư, cô Phong nói: “Tôi nghỉ hưu chứ nghề không hưu, nếu các em cần tôi sẽ có mặt chỉ dẫn trong vai trò người cố vấn!”.
Bài, ảnh: Phan Vĩnh Yên
 
“Ngày nay khi xã hội đang trên đà phát triển, hơn ai hết người giáo viên phải biết bắt nhịp với các phương pháp mới. Phải khơi dậy niềm ham mê đọc sách, sự quan sát cuộc sống xung quanh ở học sinh. Có như thế môn văn mới lấy lại được vị thế, không bị “ghẻ lạnh” như thời gian qua”, cô Phạm Thị Phong tâm tư. 
 

Bình luận (0)