“… Tre không tàn vì có vạn thân măng/Mơn mởn lên xanh trọn niềm chung thủy…” (thơ Thu Bồn)
Những ngày giãn cách xã hội ở đô thị, chợt nhớ đến không khí của làng quê, nhẹ nhàng, bình dị nhưng không kém phần sâu lắng. Đặc biệt là nhớ những bụi tre làng từ hàng ngàn năm gắn bó đối với văn hóa của người Việt…
Hình ảnh Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân xâm lược đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh chiến thắng thần kỳ của dân tộc Việt Nam
“Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh…”
Từ bao đời nay, cây tre có mặt hầu hết khắp các nẻo đường đất nước và gắn bó thủy chung với cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong tâm thức người Việt, cây tre chiếm vị trí sâu sắc – được xem như là biểu tượng của người Việt, đất Việt…
Nhớ những câu thơ của nhà thơ Nguyễn Duy: “Tre xanh xanh tự bao giờ/ Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”.
Cùng với cây đa, bến nước, sân đình – một hình ảnh quen thuộc, thân thương của làng Việt cổ thì những bụi tre làng từ hàng ngàn năm đã có sự gắn bó đối với người Việt. Tre tỏa bóng mát và cống hiến tất cả. Từ măng tre ngọt bùi đến bẹ tre làm nón, từ thân tre cành lá đến gốc tre đều góp phần cho cuộc sống.
Cây tre đã gắn bó với bao thăng trầm của lịch sử nước nhà. “Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre và đánh giặc…”. Không phải ngẫu nhiên sự tích loại tre thân vàng được người Việt gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng. Hình ảnh Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân xâm lược đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh chiến thắng thần kỳ của dân tộc ta đối với những kẻ thù xâm lược lớn mạnh. Mặt khác, hình tượng của cậu bé Thánh Gióng vươn vai hóa thân thành người khổng lồ rất có thể liên quan đến khả năng sinh trưởng rất nhanh của cây tre (theo các nhà thực vật học, thì măng tre có thể cao thêm 15-20cm mỗi ngày). Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, các lũy tre xanh đã trở thành “pháo đài xanh” vững chắc chống quân xâm lược, chống thiên tai. Tre thật sự trở thành chiến lũy và là nguồn vật liệu để chế tạo vũ khí tấn công trong các cuộc chiến. Chính ngọn tầm vông góp phần lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lược để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. “Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín…”.
Những chiếc bình gốm với họa tiết tre, trúc xinh xắn thay cho lời chúc “Trúc báo bình an”
Vốn gần gũi với đời sống con người, cây tre đã từng là nguồn cảm hứng trong văn học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổ tích “Nàng Út ống tre”, “Cây tre trăm đốt”… đến các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre. Tre còn góp mặt trong phim ảnh, những làn điệu dân ca, điệu múa sạp phổ biến hầu khắp cả nước. Và nó là một trong những chất liệu khá quan trọng trong việc tạo ra các nhạc khí dân tộc như đàn T’rưng, sáo, khèn… Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người Việt. Mỗi khi xa quê hương, lữ khách khó lòng quên được hình ảnh lũy tre làng thân thương, nhưng nhịp cầu tre êm đềm… Hình ảnh của tre luôn gợi nhớ về một làng quê Việt Nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí.
Trong quá trình hội nhập quốc tế và hiện đại hoá thì tre ngày nay lại trở thành những sản phẩm có giá trị thẩm mỹ cao được nhiều khách nước ngoài ưa thích như đèn chụp bằng tre, đĩa đan bằng tre… |
Có thể thấy rằng bản lĩnh, bản sắc của người Việt và văn hóa Việt có những nét tương đồng với sức sống và vẻ đẹp của cây tre đất Việt. Tre không mọc riêng lẻ mà sống thành từng lũy tre, rặng tre. Đặc điểm cố kết này đặc trưng cho tính cộng đồng của người Việt. Chính vì thế mà cây tre được ví như là con người Việt Nam cần cù, siêng năng, bám đất, bám làng. Tre cùng người Việt Nam trải qua bao thăng trầm của lịch sử, qua bao cuộc chiến tranh giữ nước – tre xứng đáng là hình ảnh biểu tượng cho tính kiên cường, bất khuất của người Việt Nam, là cái đẹp Việt Nam.
Cầu tre lắt lẻo
Triết gia, nhà văn Ivo Andric (1892-1975), từng đoạt giải Nobel văn học năm 1961 với tác phẩm “Cầu trên sông Drina” đã chia sẻ: “Chiếc cầu quan trọng hơn ngôi nhà, chúng thiêng liêng hơn giáo đường bởi vì chúng có sức liên kết mạnh hơn”. Thật vậy, từ lâu hình ảnh chiếc cầu đã được chọn là biểu tượng cho mỗi vùng, địa phương khác nhau trên thế giới. Khó có thể kể ra một công trình xây dựng nào lại gắn bó mật thiết với mọi mặt đời sống và hoạt động của con người hơn thế.
Đã là người Việt, thì hình ảnh cầu tre thân thương vẫn mãi ăn sâu trong ký ức, nó như một nét văn hóa đặc thù của miền quê sông nước, rất độc đáo về cảnh quan và sinh hoạt của cư dân nơi đây. Ngày ấy, vùng quê còn nghèo, cây cầu tre như là những “khuông nhạc” nối những bờ vui, đã chung tình với mảnh đất quê hương, quen thuộc với người dân nông thôn, chất phác. Khi chân bước lên cầu tre từ người lớn đến trẻ em dường như đã quen với “nhịp lắc” và cái gập ghềnh mỗi khi đến trường hay đi học về: “Ví dầu cầu ván đóng đinh/ Cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi”. Có lẽ cái sợi dây gắn kết ấy đã có từ khi đứa trẻ ra đời, hình ảnh cây cầu tre đã theo lời ru của mẹ mà lớn lên theo năm tháng. Rồi dù ta có trưởng thành, đi xa hình ảnh cây cầu tre thuở bé vẫn theo chân mỗi người như hành trang quý báu, kết chặt nghĩa tình, gợi lên sự dịu dàng yêu thương.
Hình ảnh cầu tre lắt lẻo ở miền quê
Không cầu kỳ, cũng chẳng cao sang, những chiếc cầu bình dị đã “hòa mình” vào cuộc sống ở kênh rạch, nối liền hai bờ cho mọi người qua lại giao hòa cùng nhau, mỗi ngày như mọi ngày mang đến niềm vui hạnh ngộ đôi bờ cho con rạch làng quê. Dòng nước cạn, con rạch nhỏ, thân cầu “quằn mình” nối bên này bên kia. Dòng nước sâu, con sông rộng, cầu cũng nối dài thêm nhiều nhịp thành cây cầu lắt lẻo, gập ghềnh trên dòng nước bao mùa… Từng đoạn của cây cầu như những mảnh ghép của năm tháng đã qua, in hằn những dấu chân đi về.
Ở trong kênh, rạch, nên cầu tre mang trên mình cái nét riêng của con kênh hiền hòa, của con rạch bùn lầy, của xứ sở quê mùa… Ngày nay, với nhịp sống mới, ở những làng quê đang từng ngày thay đổi với nhiều chiếc cầu mới khang trang mọc lên thay thế cho những chiếc cầu tre, cầu ván, cầu khỉ nối nhịp đôi bờ. Nhưng có lẽ, ẩn sâu trong tiềm thức của người dân Việt, cầu tre đã là một biểu tượng văn hóa cho vùng đất và con người miền sông nước mộc mạc nhưng ấm áp, nghĩa tình.
ThS. Nguyễn Hiếu Tín
Bình luận (0)