Giữa những trang sử vàng của dân tộc, tên tuổi Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn tỏa sáng như ngọn cờ bất khuất. Thế kỷ XIII, ba lần quân Nguyên – Mông tràn xuống đất Việt, ba lần ông dẫn quân và toàn dân Đại Việt dựng nên chiến công hiển hách, bảo vệ từng tấc đất quê hương. Từ Bạch Đằng cuộn sóng đến Vạn Kiếp dậy oai hùng, tài thao lược và tấm lòng vì nước quên thân của ông đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh Việt Nam. Không chỉ là vị tướng kiệt xuất, Trần Quốc Tuấn còn để lại một áng hùng văn bất hủ – Hịch tướng sĩ. Bảy thế kỷ trôi qua, tiếng hịch ấy vẫn vang vọng, thôi thúc từng nhịp tim Việt Nam giữ trọn niềm trung nghĩa với non sông…

Trần Hưng Đạo – Hào khí non sông
Ông tên thật là Trần Quốc Tuấn (1228-1300), còn được gọi Hưng Đạo Đại vương (là tước phong chính thức cao nhất do vua nhà Trần ban tặng). Tên gọi Trần Hưng Đạo là nói tắt cho cách gọi đầy đủ là “Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn”. Do ông đã có những công lao to lớn trên con đường vệ quốc, gìn giữ độc lập, vua đã trao cho ông vị trí tối cao là Quốc công tiết chế (toàn quyền chỉ huy quân đội Đại Việt thời Trần), đồng thời đặc cách cho ông được quyền phong tước hiệu cho bất kỳ ai mà ông muốn. Nhưng trong suốt cuộc đời, ông không hề sử dụng đặc quyền này.
Sử sách còn lưu truyền, thuở nhỏ ông rất có khiếu văn chương và võ nghệ. Ông được gia đình kỳ vọng rất nhiều, bản thân cũng luôn mong được thỏa chí “tang bồng, hồ thỉ”. Được tiếp thu một nền học vấn uyên thâm nhất là về “lục thao, tam lược” ông đã mau chóng bộc lộ thiên tài về quân sự. Suốt thời kỳ sôi động chống ngoại xâm, Trần Quốc Tuấn luôn đứng ở nơi gian lao, nóng bỏng nhất. Trong cuộc kháng chiến quân Nguyên Mông lần thứ nhất (1258), mới 23 tuổi, ông đã là một viên tướng trấn giữ nơi biên ải. Trong hai cuộc kháng chiến sau này (1285 và 1287) ông đều được cử làm Tổng chỉ huy quân đội, chức Tiết chế thống lĩnh toàn quân, tước Hưng Đạo vương.
Nguyên Mông lúc bấy giờ là một đế quốc hùng mạnh, nỗi kinh hoàng của cả thế giới trung cổ, kẻ đã giày xéo và khuất phục bao cường quốc trên thế giới, từ Đông sang Tây, từ vùng Trung Á nóng bức đến xứ sở băng tuyết Nga, Hung, Pháp… bắt các hoàng đế Trung Hoa quy phục và khiến giáo hoàng La Mã run sợ… Và Trần Quốc Tuấn, người anh hùng kiệt xuất, chính là đại biểu ưu tú nhất trong việc thể hiện sức mạnh và bản lĩnh của nước Việt. Ông là người thể hiện rực rỡ tinh thần của quốc gia, dân tộc, của nền văn hóa Thăng Long trong thời đại Đông A hào hùng, trước nguy cơ bị tiêu diệt và 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông, khiến thế giới kinh ngạc.
Không phải ngẫu nhiên, nhà sử học Phan Huy Chú (thế kỷ 19) đã khẳng định: “Danh tướng nhà Trần như Hưng Đạo vương không mấy đời có; kiêm cả văn võ, thừa trí dũng, dựng nên công lao sự nghiệp kỳ vĩ mà giữ vững trung nghĩa cùng một hàng với Quách Tử Nghi. Ông không những là anh hùng của một thời đại mà cho đến các bậc tướng thần cổ kim cũng ít ai bì kịp”.
Không chỉ dân tộc Việt Nam vinh danh ông mà tên tuổi của ông cũng rất nổi tiếng trên thế giới. Vào tháng 2 năm 1984, Viện Khoa học Hoàng gia Anh đã triệu tập một phiên họp gồm 478 nhà khoa học về lịch sử quân sự của các nước để bầu ra 10 tướng soái kiệt xuất nhất trong lịch sử nhân loại, qua các thời đại nhằm mục đích chuẩn bị cho việc xuất bản cuốn “Bách khoa toàn thư nước Anh”. Sau khi liệt kê 98 thống soái tài ba nhất trong các nước trên thế giới, phiên họp đã bầu ra 10 tướng soái cho cả 4 thời đại: thời Thượng cổ 3 vị, thời cận đại: 4 vị, thời hiện đại: 2 vị, trong số này có nhiều vị chỉ được 70% số phiếu. Riêng thời Trung cổ, Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn là vị tướng soái duy nhất được chọn với tuyệt đại đa số phiếu 100%. Điểm đáng chú ý là, trong số phiếu còn ghi rõ Trần Hưng Đạo là người đánh thắng kẻ thù mạnh nhất thế giới là quân Nguyên Mông.
Trần Quốc Tuấn không phải là người chỉ được nhìn đơn điệu như một võ tướng tài ba, chỉ giỏi xông pha trận mạc. Ở ông là sự hội tụ và kết tinh của tinh thần và khí phách dân tộc, trong sự bền vững, mạnh mẽ của nó. Có thể thấy ở ông một vị tướng “đa mưu túc trí”, một nhà chính trị vững vàng, một nhà ngoại giao đầy bản lĩnh. Và ông, nằm trong số không nhiều những người, cuộc đời được soi vào chính sử không hề đơn điệu, mà phong phú đa dạng. Đó không phải là con người – sự kiện, mà là con người nhân cách.
Hịch tướng sĩ văn – tiếng gọi từ trái tim
Tài năng của ông còn trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Ngoài là thiên tài quân sự, Trần Hưng Đạo còn là nhà văn, nhà y học lớn của thế kỷ XIII. Lần đầu tiên trong lịch sử nước nhà ông đã biên soạn bộ binh pháp nổi tiếng với tên gọi “Binh thư yếu lược”, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử khoa học quân sự. Tuy là sách binh pháp, nhưng xét về nghệ thuật thể hiện, có thể xem đó là một tác phẩm văn học giá trị.
| Sự nghiệp, tài năng và hơn hết là nhân cách lớn lao, kỳ vĩ của ông đã để lại trong tâm thức người dân muôn đời lòng biết ơn sâu sắc và tôn lên thành bậc thánh nhân với tên gọi thân thương đầy thành kính “Đức Thánh Trần”. Dân gian ta cũng tin rằng với uy linh và sự đức độ của ông sẽ phù hộ cho họ tránh dữ gặp lành, có cuộc sống bình yên, hạnh phúc. Điều này cho thấy, hiếm có nhân vật lịch sử nào như Trần Hưng Đạo lại có một chỗ đứng sâu sắc trong lòng dân chúng. Cuộc đời, hành trạng của ông không chỉ được nhân dân tôn vinh truyền tụng mà nó còn được kỳ vĩ hóa, lưu truyền trong ký ức của dân tộc, khiến ông đã trở thành chỗ dựa tâm linh vững chắc. Tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần chính là tuân thủ quy luật “sinh vi tướng, tử vi thần” trong văn hóa Việt và có giá trị to lớn trong giáo dục nhân cách, đạo lý làm người, góp phần tạo nên bản sắc của dân tộc Việt. |
Đặc biệt, ở tài năng văn học của ông còn thể hiện rõ nhất, sắc sảo nhất chính là ở “Hịch tướng sĩ văn” – một tác phẩm đã tồn tại vĩnh viễn trong lịch sử văn học. Bài hịch đã nêu cao các tấm gương trung thân nghĩa sĩ, quở trách thói ham vui chơi, hưởng thụ vô trách nhiệm, vạch rõ nguy cơ có giặc ngoại xâm, ra lệnh học tập binh pháp, rèn luyện quân sĩ, kêu gọi tướng sĩ một lòng chuẩn bị rửa nhục cho nước. Bài hịch có kết cấu chặt chẽ, tư tưởng tập trung, ví dụ dồn dập, suy luận tầng tầng lớp lớp. Văn phong dõng dạc, quở trách nghiêm minh, phân tích có tình có lí, ra lệnh dứt khoát, xứng là một mẫu mực bất hủ của văn nghị luận muôn đời.
Ngoài ra, ông cùng với Thái y học viện (cơ quan y tế của triều đình) và nhiều bậc danh y khác, đã có công đặt tiền đề đưa nền y học nước nhà phát triển với ý thức coi trọng cây thuốc nam trong nước, dùng dược liệu trong nước để chữa bệnh cho quân sĩ và nhân dân. Ngọn Dược Sơn trên núi Vạn Kiếp chính là nơi xưa kia Trần Hưng Đạo đã trồng cây thuốc để chữa bệnh.
ThS. Nguyễn Hiếu Tín

Bình luận (0)