Y tế - Văn hóaVăn hóa nghệ thuật

Huỳnh Như Phương với di sản văn học nghệ thuật miền Nam giai đoạn 1954-1975

Tạp Chí Giáo Dục

Sau 50 năm tính t ngày thng nht đt nưc, mt trong nhng thành tu quan trng ca hot đng nghiên cu và phê bình văn hc, theo tôi đó là đã góp phn to nên s chuyn biến trong nhn thc; qua đó, tng bưc khôi phc và xác lp v trí ca văn hc min Nam giai đon 1954-1975 trong tiến trình lch s văn hc dân tc thế k XX.

Huỳnh Như Phương thư giãn bên tách cà phê 

Đây là một hành trình đầy gian nan cho những ai quan tâm đến mảng văn học này. Nhìn riêng trường hợp những nhà nghiên cứu và phê bình văn học ở phía Nam từ sau 1975 đến nay, công việc này càng có ý nghĩa hơn nữa. Bởi lẽ, trong tư cách của những nhà nghiên cứu, thật khó để họ dửng dưng trước kho tàng tri thức và văn hóa đồ sộ của cha ông. Trong số ấy, có thể nói, nhà giáo, nhà nghiên cứu và phê bình văn học Huỳnh Như Phương là người nặng lòng, dành nhiều tâm huyết cho việc nghiên cứu và giữ gìn di sản văn học miền Nam trong suốt sự nghiệp của mình.

Chng nhân lch s hay là đnh mnh văn chương

Sinh ra và lớn lên ở vùng quê miền Trung (Quảng Ngãi), suốt quãng thời hoa niên, Huỳnh Như Phương đã phải chứng kiến bao nỗi tang thương của đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh. Không đâu xa, người cha yêu thương của ông đã ngã xuống trong một trận đánh với lính Nam Hàn. Nhà cửa của ông khi ấy cũng bị thiêu rụi bởi bom đạn chiến tranh. Vì vậy mà khi tập tành viết lách, những tác phẩm đầu tiên của ông cũng chủ yếu đề cập đến những phận người trong cơn tao loạn với một tinh thần phản chiến cùng khát vọng hòa bình cho quê hương. Đó cũng là lý do ông đã phải “nếm trải vị đắng văn chương” ngay khi còn là cậu học sinh bậc trung học cơ sở. Liên tiếp trong hai năm lớp 9 và lớp 10, Huỳnh Như Phương đã gặp rắc rối với chính quyền thời ấy vì những bài báo đăng trên các tạp chí Trình Bầy, Đối Diện ở Sài Gòn hay những bài viết, bức vẽ mang nội dung phản đối chiến tranh trên báo xuân ở những ngôi trường mà ông theo học.

Lớn lên chút nữa, vì để tránh bị bắt đi lính ông đã ghi danh vào học ban Triết ở Đại học Văn khoa Sài Gòn nhưng hoàn cảnh run rủi, ông phải chuyển sang học ban Văn. Sau ngày đất nước thống nhất, ông trở thành nhà giáo, nhà nghiên cứu và phê bình văn học.

Kể về đời mình, Huỳnh Như Phương có lần bảo dường như định mệnh đã gắn ông với con đường nghiên cứu văn chương. Bởi, thuở nhỏ ước mơ của ông là trở thành kỹ sư nông nghiệp chứ không có ý định theo đuổi con đường khoa học nhân văn; tuy say mê văn chương và thích sáng tác nhưng cũng không có ý định làm nhà nghiên cứu và giảng dạy văn học. Nếu vậy, theo tôi, cần phải cảm ơn… định mệnh đã lựa chọn ông cho công việc này. Vì hơn ai hết ông chính là một chứng nhân của lịch sử, là người tận mắt chứng kiến những bước thăng trầm của văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975.

Ngay từ thập niên tám mươi của thế kỷ trước, khi việc nhìn nhận và đánh giá văn học miền Nam còn là vấn đề nhạy cảm và nhiều thiên kiến, Huỳnh Như Phương đã biên soạn và cho ra mắt tuyển tập truyện ngắn của một số nhà văn miền Nam nhan đề “Mùa xuân chim én bay về” trong sự ái ngại và lo lắng của một số đồng nghiệp. Trong tư cách của nhà nghiên cứu và phê bình ông cũng không nhìn văn học miền Nam trong thế “đối lập” để triệt tiêu; cũng không xem đó là nền văn học “đồi trụy”, “sa đọa” hay “phản động” mà luôn xem nó như một bộ phận không thể tách rời của lịch sử văn học dân tộc với cái nhìn trầm tĩnh và tinh thần đối thoại học thuật nhằm “gạn đục khơi trong”. Nền văn học ấy, theo ông, trước hết chịu sự ảnh hưởng và chi phối bởi một ý thức hệ thẩm mỹ và văn hóa trong một bối cảnh lịch sử và chính trị cụ thể. Nó không toàn bích nhưng cũng phải vô dụng đến mức phải loại trừ hoặc “gạt ra bên lề”.

Thành tu và phong cách

Có thể chia các công trình nghiên cứu của Huỳnh Như Phương về di sản văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975 thành hai mảng chính như sau:

Mảng thứ nhất là các bài viết mang tính tổng thuật về bối cảnh văn hóa, xã hội cùng tiến trình vận động và phát triển của văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975. Ở mảng này, cùng với Trần Hoài Anh, Huỳnh Như Phương đã tái hiện sinh động hoạt động tiếp nhận và giới thiệu lý thuyết văn học Âu Mỹ cũng như việc ứng dụng các lý thuyết này vào nghiên cứu và phê bình các hiện tượng văn học ở miền Nam lúc bấy giờ. Có thể kể ra các công trình, bài viết tiêu biểu của Huỳnh Như Phương như: Chiến tranh, xã hội tiêu thụ và thị trường văn học miền Nam 1954-1975; Văn học miền Nam Việt Nam 1954-1975: Những khuynh hướng chủ yếu và thành tựu hiện đại hóa; Văn xuôi hư cấu: ranh giới giao thoa và thể loại trên cứ liệu văn học miền Nam 1954-1975); Tạp chí Trình Bầy và những nhà văn khuynh tả ở miền Nam trước 1975; Hiện sinh, tình yêu, cái chết trong ca từ ở miền Nam giai đoạn 1954-1975; Ferdinand de Saussure, Claude Lévi-Strauss và chủ nghĩa cấu trúc ở miền Nam Việt Nam (1954-1975); Lý thuyết tiếp nhận và tâm lý học nghệ thuật trong khảo cứu, phê bình văn học ở miền Nam Việt Nam (1954-1975); Chủ nghĩa Marx trong khảo cứu và phê bình văn học ở miền Nam Việt Nam (1954-1975); Chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam Việt Nam 1954-1975 (trên bình diện lý thuyết); Tiểu thuyết dòng ý thức và tiểu thuyết Mới từ phương Tây đến miền Nam Việt Nam 1954-1975… (1)

Huỳnh Như Phương phát biểu tại một sự kiện

Có thể nói, với kinh nghiệm của một nhà giáo dạy lý thuyết văn học với thâm niên 40 năm; bằng sự thận trọng của một nhà nghiên cứu, nhất là về mặt sưu tầm và khảo sát tư liệu, các công trình nghiên cứu của Huỳnh Như Phương có độ xác tín và mang tính thuyết phục cao. Tiếp xúc các công trình của ông, bạn đọc có thể an tâm về những nhận định mang tính khái quát về các vấn đề liên quan đến đời sống văn hóa, văn nghệ ở miền Nam lúc bấy giờ.

Ở mảng thứ hai, là những bài viết nghiên cứu trường hợp. Đây những bài viết ngắn, là kết quả từ việc sưu tầm và đọc lại một số hiện tượng văn chương ở miền Nam trước 1975 mà tác giả thấy thích thú. Những bài viết này được in rải rác trong các tạp chí nghiên cứu về văn học hoặc giới thiệu sách trên báo chí gắn với quãng thời gian 40 năm dạy học của ông. Tiêu biểu là các bài viết về Võ Hồng (Phẩm hạnh của văn chương); Tam Ích (Tam Ích trong bối cảnh văn học miền Nam sau 1945); Phạm Hữu Lai (Phạm Hữu Lai và ngữ học cấu trúc); Nhất Hạnh (Thơ Nhất Hạnh: những hóa thân mầu nhiệm, Thiền sư Thích Nhất Hạnh – biểu tượng của sự đối thoại và hòa giải); Bùi Giáng (Bùi Giáng: thơ phơi giữa nắng); Trần Mai Châu (Trần Mai Châu và giấc mộng Dạ Đài); Trụ Vũ (Thơ Trụ Vũ và những bước trầm hương); Lữ Quỳnh (Lữ Quỳnh: từ cát vàng đến những cơn mưa mùa đông); Thế Nguyên (Hồi chuông tắt lửa và cái nhìn hiện tượng luận); Nguyễn Hiến Lê (Một tượng đài của văn hóa đọc); Đỗ Hồng Ngọc (Đỗ Hồng Ngọc: thơ ẩn hiện giữa đời); Nguyễn Văn Trung (Nguyễn Văn Trung: người ưu tư với văn hóa dân tộc); Lý Chánh Trung (Sự lựa chọn của người trí thức); Hoàng Ngọc Biên (Hoàng Ngọc Biên: quê hương, người về); Ngô Kha (Bài tưởng niệm Ngô Kha); Tường Linh (Tường Linh: một đời thơ gửi lại); Nguyễn Vỹ (Nguyễn Vỹ: cảm quan xã hội và thể nghiệm nghệ thuật); Diễm Châu (Diễm Châu – dịch giả và nhà thơ); Từ Nguyên Thạch (Từ Nguyên Thạch và hai bên chiến tuyến); Đặng Tiến (Đặng Tiến và thế giới của thơ); Ngọc Thùy Giang (Chút hương ngày cũ); Trần Ngọc Hưởng (“Hòa âm điền dã” trong thơ); Võ Chân Cửu (Tản mạn về thơ với Võ Chân Cửu); Đông Trình (Thơ Đông Trình – men của một thời)…

Những bài viết trên, gần đây được ông tập hợp và in lại trong các tập phê bình như: Hãy cầm lấy và đọc (2016); Giấc mơ, cảnh tượng và cái nhìn (2019); Hồi âm từ phương Nam (2024). Với các bài viết dạng này, trước hết không khó để độc giả nhận ra một sự “hiệp thông”, đồng cảm của nhà phê bình với những con người đã “lỡ vướng vào nghiệp cầm bút”, trong đó có những người từng là đồng nghiệp hay bạn bè ở “Đại học Văn khoa” một thuở với ông. Nhưng trên hết, qua các bài viết là tinh thần trách nhiệm của một nhà nghiên cứu với mong muốn mang đến cho độc giả hôm nay những vẻ đẹp văn chương vốn từng bị che mờ bởi những lớp bụi thời gian. Trong ý nghĩa này, có thể nói Huỳnh Như Phương là người có đóng góp quan trọng trong việc bảo tồn và giữ gìn ký ức và văn hóa của cha ông một thời.

Ở phương diện khác, có thể nói đọc văn nghiên cứu và phê bình của Huỳnh Như Phương, người đọc không có cảm giác bị choáng ngợp hay hoa mắt bởi những thuật ngữ khoa học bóng bẩy, “cao siêu”, “thời thượng” (dù tác giả là một chuyên gia về lý thuyết văn học). Nếu nói về thẩm quyền chuyên môn trong học thuật thì Huỳnh Như Phương là người hội đủ cả 2 yếu tố quan trọng để trở thành một nhà nghiên cứu, phê bình chuyên nghiệp. Nói cách khác, ông là nhà phê bình trên đầu có lý thuyết và trong tay có tư liệu. Riêng với bộ phận văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975, sự trải nghiệm lý thuyết và thực tiễn của ông cũng rất đa dạng và phong phú. Thời sinh viên, ông được tắm mình giữa hai môi trường học thuật tương ứng với hai ý thức hệ thẩm mỹ và văn hóa khác nhau. Đây là một thuận lợi mà không phải nhà nghiên cứu nào cũng có. Nghiên cứu và phê bình của Huỳnh Như Phương vì thế, luôn có sự kết hợp rất tự nhiên và nhuần nhuyễn giữa lý thuyết và thực tiễn văn học. Trong nhiều trường hợp, hai yếu tố này hòa quyện và chuyển hóa lẫn nhau. Các bài phê bình về Nhất Hạnh, Bùi Giáng, Nguyễn Văn Trung, Hoàng Ngọc Biên, Võ Hồng, Trụ Vũ, Diễm Châu, Tường Linh, Đông Trình… là những minh chứng rõ ràng nhất. Đây là cách tiếp cận vấn đề của những bậc “cao thủ”, dùng “hư chiêu” để khắc “hữu chiêu”. Phải là người có chiều sâu và nội lực văn hóa mới “xuất chiêu” được như vậy.

Ngoài ra, về ngôn ngữ và giọng điệu, nhìn chung các bài viết của ông bao giờ cũng chừng mực, giàu tính đối thoại, luôn để ngỏ cho mọi sự lý giải và cảm nhận chứ ít khi là sự xác quyết và khẳng định “chỉ ta mới là chân lý”. Tất cả những vấn đề trên phải chăng đã góp phần làm nên nét phong cách riêng trong nghiên cứu và phê bình của ông: khoa học và chuyên nghiệp trong tiếp cận, nhẹ nhàng và tinh tế trong cảm nhận, từ tốn và khiêm nhường trong đối thoại, cẩn trọng và khách quan trong nhận định, bình giá?

Tâm truyn tâm

Những thế hệ người học và nghiên cứu từng tiếp xúc với Huỳnh Như Phương phần lớn đều có chung nhận xét ông là người rất kỹ tính trong nghiên cứu và giao tiếp, ứng xử. Sự kỹ tính này thể hiện qua tâm thế và thái độ văn hóa mà ông đòi hỏi rất cao đối với những người làm nghề. Theo đó, sự trung thực và tự trọng trong nghiên cứu và khiêm cung trong giao tiếp là những điều theo ông những người “hành nghề chữ nghĩa” nhất định phải có. Đó là lý do ông cho rằng người học văn cũng giống như người đi tìm đạo, học đạo, phải “học cách tu dưỡng, cách nói năng, học nghệ thuật ngôn từ mà cũng là học nghệ thuật lắng nghe và im lặng”. Vì im lặng cũng chính là “góp lời”, im lặng cũng chính là “hiện hữu”, là một cách để bày tỏ thái độ.

Là người có thẩm quyền về chuyên môn nhưng Huỳnh Như Phương không lấy đó để tự huyễn mình hay phủ nhận hay thậm chí vùi dập người khác trong sự kẻ cả. Trong nghiên cứu, phê bình ông luôn giữ cho bản thân một tư thế độc lập và có chủ kiến; nhất là không bè phái cục bộ, cánh hẩu, “lính anh, lính tôi” khi thẩm định các công trình nghiên cứu khoa học của bất cứ cá nhân nào. Ông hiểu rõ, nắm chắc những gì mình nói, cần nói và nói ở đâu, lúc nào. Đồng thời cũng hiểu rất rõ những gì “không thể nói ra thì nên đưa nó vào im lặng”.

Khách quan mà nói, hiện nay, về cơ bản tuy nhận thức về văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975 đã có sự cởi mở và tích cực hơn trước nhưng trên thực tế không phải không còn những rào cản và khó khăn nhất định. Nhìn ở phương diện này chúng ta sẽ thấy một đóng góp quan trọng khác của Huỳnh Như Phương đó là khả năng dẫn dắt và tạo cảm hứng học thuật cho thế hệ trẻ bằng chính sự chân thành, tâm huyết và nghiêm túc của mình. Nói khác đi, đó là con đường “tâm truyền tâm”.

Thời gian qua, nhờ những nỗ lực trong giảng dạy và nghiên cứu, phê bình Huỳnh Như Phương trở thành tấm gương và động lực to lớn cho những nhà nghiên cứu trẻ soi vào; qua đó, giúp họ vững tâm hơn khi quyết định lựa chọn di sản văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975 làm ý hướng chính cho con đường nghiên cứu học thuật của mình. Thực tế cho thấy, nhìn riêng ở TP.HCM, tiếp nối thế hệ của Huỳnh Như Phương là đội ngũ các nhà nghiên cứu trẻ giàu tiềm năng và say mê với nghề như: Phan Mạnh Hùng, Trần Lê Hoa Tranh, Nguyễn Thị Phương Thúy, Hà Thanh Vân, Lê Ngọc Phương, Lê Thụy Tường Vi, Nguyễn Ngọc Bảo Trâm, Lê Thị Kim Loan, Nguyễn Đình Minh Khuê, Võ Quốc Việt…

Trong ý nghĩa này, có thể nói Huỳnh Như Phương không chỉ là người lưu giữ ký ức và văn hóa dân tộc, mà còn trao truyền và dẫn dắt, gợi cảm hứng cho thế hệ trẻ tiếp tục con đường học thuật đầy gian nan nhưng cũng không kém phần thú vị này.

Thay li kết

Trong dòng chảy nghiên cứu và phê bình văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay, Huỳnh Như Phương là một trong những người có đóng góp quan trọng cho việc giữ gìn và bảo tồn di sản văn học nghệ thuật miền Nam giai đoạn 1954-1975. Không cực đoan trong đánh giá hay vội vã trong phán xét, ông chọn cách tiếp cận trên tinh thần đối thoại và hòa giải, từ đó góp phần thay đổi cái nhìn mang tính định kiến đối với bộ phận văn học này.

Có thể nói, với niềm tin “văn chương là cách nối dài sự hiện hữu của con người tự do”, việc nghiên cứu và giữ gìn di sản văn học miền Nam của Huỳnh Như Phương không chỉ là hành động tri thức, mà còn là trách nhiệm và lương tâm của một người cầm bút chân chính. Cùng với các nhà nghiên cứu khác, những công trình nghiên cứu của ông về di sản văn học nghệ thuật miền Nam giai đoạn 1954-1975 là những mảnh ghép hoàn hảo cho bức tranh toàn cảnh về lịch sử văn hóa dân tộc trong thế kỷ XX.

Nguyn Trng Bình
(Trưng Đi hc Cu Long, Vĩnh Long)

(1) Những bài viết trên về sau được tác giả tập hợp, bổ sung và in trong phần bốn của công trình “Việt Nam, một thế kỷ tiếp nhận tư tưởng văn hóa văn nghệ nước ngoài” do Lã Nguyên làm chủ biên, nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà Nội ấn hành năm 2020. Công trình này vốn là đề tài khoa học cấp Nhà nước mà tác giả làm Phó Chủ nhiệm đề tài.

Bình luận (0)