Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Khắc phục những bất cập

Tạp Chí Giáo Dục

Chương trình giáo dc ph thông mi môn ng văn áp dng cho hc sinh t lp 1 đến lp 12 cho thy nhiu ưu đim. Trưc hết là mc tiêu, bên cnh hình thành và phát trin cho hc sinh nhng phm cht, chương trình còn góp phn giúp hc sinh phát trin các năng lc chung.

Mt tiết hc môn ng văn ca hc sinh THPT. Ảnh: H.Giang

Ngoài ra, chương trình cũng cho thấy nhiều nét mới, từ việc xác định đặc điểm môn học, quan điểm xây dựng chương trình, vạch yêu cầu cần đạt đến việc nêu nội dung phương pháp giáo dục và cách đánh giá kết quả giáo dục. Chương trình giáo dục phổ thông mới môn ngữ văn được xây dựng và chuẩn hóa theo hướng hiện đại, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên; cho phép vận dụng nhiều phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực nhằm phát triển phẩm chất, năng lực ở học sinh… Tuy nhiên, có không ít điểm còn bất cập hoặc nếu có thể chấp nhận nhưng thiếu sự tập huấn, chuẩn bị kỹ cho người thực thi, chắc chắn chương trình khó có thể vận hành và thực hiện hiệu quả.

1. Việc lấy rèn luyện các kỹ năng giao tiếp làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học, nhìn từ phương diện “thao tác luận” là đúng và yêu cầu phải thực hiện. Nhưng nếu không cẩn thận sẽ dễ bị hiểu nhầm, dẫn đến thực hiện không đúng bản chất và đặc thù đích thực của môn ngữ văn, sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy. Hệ quả, hệ lụy của nó là có thể biến giờ dạy – học môn ngữ văn thành giờ thực hiện các thao tác cơ giới, máy móc, vô cảm giữa người dạy và người học, người học với người học, trên cứ liệu là các văn bản của môn ngữ văn. Để khắc phục nguy cơ rất có thể diễn ra này, ngoài sự tự xác định của giáo viên, yêu cầu Ban soạn thảo chương trình phải có những hướng dẫn cụ thể, có kế hoạch tập huấn cụ thể cho giáo viên. Chương trình được xây dựng theo hướng mở, thể hiện ở việc không quy định chi tiết về nội dung dạy học mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp; quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về tiếng Việt, văn học và một số văn bản có vị trí, ý nghĩa quan trọng của văn học dân tộc là nội dung thống nhất bắt buộc đối với học sinh toàn quốc. Cũng tương tự như điều vừa nói trên, việc “không quy định chi tiết về nội dung dạy học mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp” rất dễ có nguy cơ khiến giáo viên chỉ chăm chăm vào “kỹ thuật”, “thao tác” dạy học. Giờ dạy học môn ngữ văn sẽ trở nên rất vô hồn, khó có thể khơi dậy niềm hưng phấn thẩm mỹ – nhân văn… ở người học mà chỉ có môn ngữ văn mới có ưu thế mang lại. Tính mở của chương trình cũng có nguy cơ dẫn đến những tán loạn ở cả hai loại hoạt động dạy học và đánh giá kết quả.

2. Chương trình quy định 6 văn bản/tác phẩm bắt buộc, gồm: Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ, Bình Ngô đại cáo, Truyện Kiều, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Tuyên ngôn Độc lập. Không khó để nhận thấy những bất cập, vô lý, “khó hiểu” ở đây. Đã có nhiều ý kiến về điều này, rằng: Sao lại chỉ có 6 tác phẩm? Văn học Việt Nam nghèo nàn, đơn điệu đến thế sao? Văn học dân gian cũng như văn học viết Việt Nam hiện đại (chỉ cần mỗi thể loại một tác phẩm/ thơ, truyện ngắn, ký, kịch) mà cũng không có tác phẩm nào xứng đáng để đưa vào chương trình bắt buộc?…

Nhìn vào bảng quy định của chương trình, ngay về hình thức đã thấy sự mất cân đối về số lượng tác phẩm (5/6 tác phẩm thuộc văn học viết trung đại) và về thể loại (thiếu hẳn các thể loại văn học hiện đại: thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, kịch). Trên thực tế, tác phẩm bắt buộc lựa chọn lại có giới hạn rộng. Vậy là, tiểu thuyết – thể loại có vị thế đặc biệt trong văn học Việt Nam hiện đại với không ít tác phẩm đạt tầm kiệt tác có thể hoàn toàn vắng bóng trong chương trình thực dạy ở nhà trường. Để khắc phục tình trạng trên, giải pháp tốt nhất là Ban soạn thảo cần tiếp thu ý kiến của giáo viên và các nhà chuyên môn. Nếu cần, nên tổ chức một hội thảo khoa học nghiêm túc, có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. Cụ thể ở đây, cần bổ sung ngay các tác phẩm xuất sắc, tiêu biểu của văn học viết Việt Nam hiện đại vào các tác phẩm bắt buộc (mỗi thể loại 1 tác phẩm/ thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, ký, kịch = 5 tác phẩm).

3. Chương trình ngữ văn mới dựa hẳn vào trục thể loại/ kiểu văn bản. Ưu điểm của chương trình ở vấn đề này là thuận tiện cho việc dạy học đọc, viết, nói, nghe; dạy phân tích, cảm thụ văn học, nhất là với các tác phẩm thuộc thời kỳ văn học hiện đại – các tác phẩm “thuận tai”, “thuận mắt” và dễ tiếp thu hơn không chỉ đối với người học mà còn đối với cả người dạy có thể được dạy học trước. Nhưng nhược điểm là ở chỗ nó khiến cho học sinh sẽ dễ bị lẫn lộn, thậm chí tán loạn trong nhận thức về lịch sử văn học, không thấy đâu là diễn trình, bước đi của lịch sử văn học dân tộc, hiện tượng ra đời trước cứ tưởng là sau, và ngược lại. Đành rằng ở cuối cấp THCS và THPT, có bài khái quát những nét lớn về lịch sử văn học Việt Nam, nhưng như thế không đủ. Tiếp nhận tri thức ngữ văn đối với học sinh trong nhà trường phổ thông là cả một quá trình, theo lối thấm dần, ngấm dần. Ấn tượng thời học sinh với bất cứ ai cũng vậy, thường có khả năng neo đậu trong tâm trí suốt cả cuộc đời. Để khắc phục sự mơ hồ, lẫn lộn, tán loạn rất có thể diễn ra trong nhận thức về lịch sử văn học dân tộc, khi dạy học đọc, viết, nói, nghe; dạy phân tích, cảm thụ văn học qua từng tác phẩm, người giáo viên phải chú ý kết hợp với trục lịch sử văn học. Và để tạo một sự thống nhất trong toàn quốc, Ban soạn thảo chương trình cũng nên có văn bản hướng dẫn cụ thể.

4. Do yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực của người học, chương trình ngữ văn mới chú trọng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập và vận dụng kiến thức, kỹ năng của học sinh; rèn luyện cho học sinh phương pháp đọc, viết, nói, nghe, cách thức tạo lập văn bản… Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, tổ chức, khơi gợi. Điều này là hết sức cần thiết đối với hướng dạy học theo mô hình phát triển năng lực. Nhưng khi người dạy “được quyền”, “được phép” xem mình chỉ là người thuần túy hướng dẫn, tổ chức các hoạt động dạy học, tất cả còn lại phó thác cho người học, riêng với môn ngữ văn, do đặc thù của môn học này, chắc chắn nguy cơ sẽ không nhỏ. Giáo viên rất dễ rơi vào tình trạng ỷ lại học sinh, lấy cớ là phát huy trí sáng tạo của học sinh; môn ngữ văn rất có thể sẽ trở thành “sân chơi” ồn ào, vô cảm; vô bổ… Dạy học ngữ văn theo mô hình phát triển năng lực, yêu cầu người giáo viên đóng vai trò là người hướng dẫn, tổ chức, khơi gợi, không lấy việc phân tích, bình giảng của mình thay thế cho những suy nghĩ của học sinh. Nhưng như thế không có nghĩa là người giáo viên không cần dùng đến phương pháp diễn giảng, phân tích mẫu, thuyết trình tích cực. Tùy vào đối tượng học sinh ở từng cấp học, lớp học và thể loại của văn bản văn học mà vận dụng các phương pháp, kỹ thuật và hình thức dạy học cho phù hợp. Dẫu trong trường hợp nào, người truyền cảm hứng vẫn là người thầy giáo trên lớp. Phương pháp diễn giảng, phân tích mẫu, thuyết trình tích cực đối với môn ngữ văn vẫn là một phương pháp khó có thể thay thế. Vấn đề là cách dùng nó trong những trường hợp nào với mức độ nào, và trong sự phối – kết hợp với các phương pháp khác ra sao cho phù hợp và mang tính hữu hiệu. Điều này chỉ có thể do năng lực và vốn liếng văn hóa – văn học – ngôn ngữ của người dạy quyết định…

PGS.TS Bin Minh Đin
(Trưng ĐH Vinh)

Bình luận (0)