Nhịp cầu sư phạmChuyện học đường

Khúc bi hùng người gieo chữ vùng cao

Tạp Chí Giáo Dục

Trường TH, THCS Sơn Long nằm trong thung lũng, bao quanh là núi non trùng điệp
20 năm trước, huyện vùng cao Sơn Tây là nơi lạ lẫm với thế giới văn minh. Sống ở vùng đất khốn khó của Quảng Ngãi này, đồng bào dân tộc Cadong chỉ biết cái nương cái rẫy, con em họ chưa biết được tiếng Việt. Và rồi, những thầy, cô giáo đã âm thầm hy sinh tuổi thanh xuân của mình vượt qua bao hiểm nguy, gian khổ để dạy chữ, dạy người cho con em họ. đồng bào dân tộc nơi đây.
Ngót nghét 20 năm trôi qua, cuộc “trường chinh” của những thầy, cô giáo từ miền xuôi lên, đã đem ánh sáng về nơi tận cùng của tỉnh Quảng Ngãi. Họ đã gắn tình yêu của mình với mảnh đất này. Đó vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ của người giáo viên, nhưng sâu thẳm trong tâm hồn họ là tình yêu, là thiên sứ của mình đối với con trẻ vùng cao người dân tộc Cadong.
Thầy giáo dạy cách làm nhà
Sơn Tây mùa này mưa tầm tã. Mưa mịt mù trời đất. Mưa không còn nhìn thấy đường, thấy núi. Mưa ở đây như vậy đó. Những thầy, cô giáo nơi đây cũng phải làm quen với sự khắc nghiệt này. Con đường vào thôn Tà Vay, nơi giáp ranh với tỉnh Kon Tum trở nên lầy lội hơn. Không thể đi được bằng xe U-oát, chúng tôi đành phải nhờ các thầy cô giáo của Trường TH Sơn Long ra chở vào bằng xe gắn máy. Ngồi sau, người tôi cứ như muốn văng khỏi xe, mặc dù đã ôm chặt thầy giáo Phan Tấn Thanh. Thầy Thanh hiện là Phó hiệu trưởng Trường TH Sơn Long. Thầy là người có gần 20 năm “chinh chiến” những cung đường tử thần chỉ có bùn, đất và đá dài gần 20km từ trung tâm huyện đến điểm trường lẻ của thôn Tà Vay  xã Sơn Long. Kinh nghiệm lái xe những đoạn đường trơn trượt là để xe cứ chạy, nếu cưỡng lại sẽ té ngay. Thầy Thanh dặn: “Cứ để yên chân trên xe, đừng chống, như vậy người chở cũng sẽ dễ dàng vượt qua những đoạn đường này”. Mưa to, nước cứ tát vào mặt, thầy Thanh nói như hét vào tiếng mưa: “Bây giờ đỡ nhiều rồi đó, khi mới lên đây, xe máy đi không được, phải đi bộ thôi. Đi cả ngày đường mới đến được nơi dạy là chuyện bình thường”.
Vượt qua đoạn đường lầy lội sát hẻm núi, thầy Thanh chỉ cho tôi những ngôi nhà được lợp bằng mái tôn bên dưới thung lũng và kể: “Để lợp được tôn trên mái nhà như vậy là cả một quá trình. Tôi với anh Kim Văn Thanh (lúc đó là Hiệu trưởng Trường TH Sơn Dung 2) đi tới đâu là làm trường tới đó. Ở Tập đoàn 20 của thôn Tà Vay những năm 1995-1996 chưa có trường. Khi tới đây, chúng tôi nhờ dân đốn cây để làm trường. Đồng bào lúc đó chưa biết mái tôn là gì. Bọn mình vừa lợp tôn, vừa chỉ cho bà con dân tộc để họ về nhà lợp nhà của mình. Phải chỉ họ cách đóng đinh như thế nào, mép tôn trên chồng mép tôn dưới bao nhiêu, mí tôn trên giáp mí tôn dưới bao nhiêu để nước khỏi chảy vào nhà. Coi như là dạy họ cách lợp nhà bằng vật liệu mà cả ngàn đời nay họ chưa bao giờ biết tới. Hầu như tất cả 5 điểm trường lẻ của Trường TH Sơn Long đều như vậy cả. Phải mất đến 2, 3 năm sau, bà con Cadong nơi đây mới mua tôn về lợp cho mái nhà của mình”.
Sự tri ân đối với bà con dân bản

Bữa cơm tập thể của thầy cô giáo Trường TH, THCS Sơn Bua

Mưa đã ngớt. Núi rừng Sơn Tây trùng trùng điệp điệp đang dần hiện ra. Hơi núi bắt đầu bốc lên tạo thành những đám mây điểm xuyết cho màu xanh của rừng núi đại ngàn. Trên đường đi, thầy Thanh đã kể cho tôi nghe rất nhiều chuyện về hành trình đem con chữ đến với vùng cao này như một đặc sản của người làm nghề dạy chữ, dạy người. Và nói đúng hơn, đó là những kỉ niệm mà suốt cuộc đời của mình, thầy Thanh không bao giờ quên. Những câu chuyện tưởng chừng như không bao giờ có đoạn kết đã đưa chúng tôi về đến điểm trường Tập đoàn 20 thuộc thôn Tà Vay xã Sơn Long. Tại điểm trường này, các thầy cô giáo muốn về xuôi phải vượt qua đoạn đường hơn 100km. Cách đây 20 năm, đi vào được nơi đây là một kỳ tích chứ chưa nói việc ở lại dạy học cho các em. Tại đây, tôi lại được gặp một nhân chứng sống, biểu hiện cho tình yêu thương đùm bọc giữa bà con dân tộc Cadong đối với người thầy giáo. 
15 năm trước, sau khi dạy các em xong, thầy Đinh Xuân Hân đau bụng. Cơn đau kéo dài từ sáng đến chiều. Biết là bệnh nghiêm trọng, phải chuyển ra trung tâm huyện mới có thể cứu được thầy, thế là gần 20 thanh niên trai tráng trong buôn đã quyết định khiêng thầy Hân về bệnh viện huyện. Đoàn người khiêng thầy Hân đội mưa, đội gió, băng rừng, vượt núi, cứ 200m là thay tốp khiêng khác, vừa đi vừa chạy. Sau hơn 4 giờ đồng hồ, đoàn người đã vượt qua gần 20km đường rừng đưa thầy Hân về tới bệnh viện huyện. Thầy đã được cứu sống bởi tình thương của bà con nơi đây. Thầy Hân tâm sự: “Mình đã được bà con nơi đây cưu mang và cứu sống. Mình mắc nợ nơi này. Vừa là trách nhiệm, nhưng nơi đây là máu thịt của mình. Xa các em một ngày là nhớ lắm. Cho dù xa xôi cách trở, nhưng mình muốn đem lại kiến thức cho các em. 
Khúc bi hùng
Vượt qua những khó khăn trong cuộc sống là tình yêu thương con trẻ, vượt lên đau thương mất mát là triết lý sống của người thầy. Nhiều thầy, cô giáo đến với Sơn Tây, ban đầu chưa phải là tình yêu thương thực sự. Nhưng rồi, khi đến đây, đối diện với những khuôn mặt trẻ thơ, sự khốn khó của người dân, trong họ đã nảy nở tình yêu thương thật sự. Đối mặt với sự khắc nghiệt của thời tiết, sự trống vắng tình cảm… nhiều thầy cô giáo đã âm thầm bám bản, bám làng, bám trường lớp. Trong cơn lạnh cắt da, nhiều thầy cô giáo phải ở những nơi heo hút, gió lạnh buốt lòng. Nhiều thầy cô thường xuyên có mặt trên các vùng biên giáp với các tỉnh Kon Tum, Quảng Nam để chỉ cho các em đánh vần từng con chữ, giúp bà con mở mang kiến thức của cuộc sống hiện đại. Giáo dục Sơn Tây đã từng phải đánh đổi máu và nước mắt của những thầy cô giáo ở miền xuôi khi lên đây giảng dạy. Những đau thương mất mát ấy đã được ông Lê Hoài Thạnh, Trưởng phòng GD-ĐT huyện Sơn Tây nén chặt vào những câu thơ đầy bi hùng: “Nhớ không em, những cơn sốt rét rừng đã từng làm môi em đen thẫm/ Những bước chân xiêu vẹo giữa núi đồi, mưa gió lâm thâm…/ Thương cô giáo, dân bản từng đêm âm thầm mang thêm lửa/ Nhưng cái lạnh trong lòng làm sao đủ lửa ấm trong tim?/ Nhớ không em những mùa nước lũ, sống chung với thủy thần quái ác/ Đồng đội của ta bị cuốn đi, bao ngày mới tìm thấy xác/ Ta như nghe tiếng thét giữa sông Rin – Thầy giáo Thành ra đi mãi mãi/ Chấp chới vòng tay, mẹ con cô giáo Thúy không còn lại trên đời”.
Những thầy, cô giáo đã ngã xuống vì sự nghiệp trồng người vùng cao này. Giáo dục Sơn Tây đáng tự hào như vậy đó, bởi nó mang một phần máu thịt của các thầy cô. Ngoài những thầy cô giáo bị cuốn đi vào mùa nước lũ thì có những thầy cô đã ra đi bởi cơn sốt rét rừng nghiệt ngã. Không riêng những người con Quảng Ngãi, mà ở Sơn Tây, nhiều thầy cô giáo ở mọi miền của Tổ quốc cũng về đây, hết mình cho sự nghiệp giáo dục.
Nhớ lại thuở ấy, ông Lê Hoài Thạnh rất tự hào, bởi chính ông đã trưởng thành hơn khi gắn bó với mảnh đất này, gắn bó với giáo dục Sơn Tây gần trọn 20 năm. Ông Thạnh chia sẻ: “Trong 20 năm qua đối với giáo dục Sơn Tây, ta có thể coi là kỉ niệm cũng được, là kí ức cũng được, nhưng cũng có thể biến thành sự tâm niệm cũng được. Tôi rút ra một triết lý là nơi nào chúng ta thật sự nhóm được ngọn lửa yêu thương, nơi nào chúng ta trao vòng tay nhân ái, nơi nào có tình người thì nơi đó mới đảm bảo sự nghiệp trồng người.
Chia tay Sơn Tây, tôi thầm cảm phục sự hy sinh thầm lặng của những thầy, cô giáo vùng cao đã hết mình cho sự nghiệp trồng người. Mưa đã tạnh, mây đã tan, con đường phía trước của vùng cao Sơn Tây đã bừng sáng.
Bài, ảnh: Phước Trung

Hãy đánh giá bài viết này!

Số điểm trung bình của bài viết (số sao) / 5.

Chưa có ai đánh giá bài viết này! Hãy là người đầu tiên đánh giá

Bạn đã đánh giá bài viết này hữu ích!

Hãy theo dõi chúng tôi trên mạng xã hội

Bình luận (0)