Trong văn học hiện thực Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám, người đọc có thể tìm thấy những nét văn hóa riêng, những phong tục tập quán mang đậm màu sắc địa phương trong tác phẩm của nhiều cây bút văn xuôi đương thời. Đó là một Hải Phòng náo nhiệt trong tác phẩm của Nguyên Hồng; vùng ven đô Hà thành của Tô Hoài; một Bùi Hiển với phong tục của người dân vạn chài xứ Nghệ; xứ đất Thần kinh mộng mơ dịu dàng, với giọng hò ngọt ngào của Thanh Tịnh… Kim Lân cũng góp một mảng màu đậm nét vào bức tranh phong tục của dân tộc bằng các tác phẩm thể hiện những nét văn hóa đặc trưng, đậm màu sắc dân gian từ chính cuộc sống sinh hoạt thường ngày của xứ Kinh Bắc – quê hương ông.

Kim Lân là người làng Phù Lưu (chợ Dầu) huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Quê ông, từ tháng giêng đến tháng ba luôn có lễ hội, hết địa phương này đến địa phương khác. Hội Đồng Kỵ, hội Đình Bảng, hội Gióng, hội Văn Môn… Trong các lễ hội này, thả chim, chọi gà, vật, đi săn là những tiết mục thường có mặt. Chính truyền thống văn hóa phong phú, đa dạng, đặc sắc của quê hương đã nuôi dưỡng và tạo nên cảm hứng phong tục trong các tác phẩm của nhà văn. Là “một nhà văn phong tục hạng nhất của Việt Nam” (nhận xét của Lữ Huy Nguyên), Kim Lân không chỉ dừng lại ở việc làm sống dậy những sinh hoạt văn hóa ở làng quê với những thú chơi tao nhã “phong lưu đồng ruộng”, mà từ trong sâu xa, nhà văn còn muốn tạo dựng trong tác phẩm của mình cái cốt cách tâm hồn Việt, phong tục, nền văn hóa Việt, tinh hoa của người nông dân làng Việt cổ tự ngàn đời nay. Nhà văn Kim Lân từng tâm sự: “Lúc tôi mới bắt đầu viết về thú chơi làng quê thì chán chường lắm. Nhưng về sau gặp Nguyên Hồng, Trần Huyền Trân… các anh cho đó cũng là một đóng góp về văn hóa, đời sống của con người. Bên cạnh công việc vất vả hàng ngày người ta cũng vẫn biết đến thú chơi, thú tiêu khiển”.
1.Trong các sáng tác, Kim Lân dường như có nhiều cảm hứng với môn đấu vật cổ truyền. Vật trở thành đề tài chính trong các tác phẩm: Cầu đánh vật, Thượng tướng Trần Quang Khải – Trạng vật, Ông Cản Ngũ. Người đọc bắt gặp những nhân vật say mê hết mình với môn vật truyền thống của dân tộc, như: anh Cả Lẫm, ông Cản Ngũ (Ông Cản Ngũ), cụ Vệ Lẫm, Trạng Kế (Thượng tướng Trần Quang Khải – Trạng vật), đô Cốt (Cầu đánh vật)… Kim Lân khắc họa, tôn vinh họ, như là những mẫu mực về sức lực, sự nhanh nhẹn, tài trí và tinh thần thượng võ.
Trong những trang viết ấy người đọc nhận rõ ý thức đề cao những giá trị văn hóa dân gian, muốn lưu giữ và bảo tồn những giá trị văn hóa đặc sắc đó. Trong lời giới thiệu Tuyển tập Kim Lân Lữ Huy Nguyên đã bình luận: “Tiếc thay, thời thế biến thiên, tinh thần thượng võ của ta mỗi ngày suy kém, môn vật vì đó – trừ một vài nơi ở thôn quê – không còn được rèn luyện như xưa, nên cũng vì đó mà không được người ta cổ xúy…, đến gần như bị lãng quên vậy. Đứng trước tình cảnh đó, ông Kim Lân cố ý muốn đem tất cả cái hay, cái lạ mắt đặc biệt của môn thể thao đó ra vẽ lại để cho ta cũng thấy một tinh hoa của đất nước gần như mai một…”.
2. Cũng xuất phát từ ý thức giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa cổ truyền, Kim Lân đã có những trang viết đầy cảm xúc về các thú chơi đồng quê như: chơi chọi gà, chơi chim… Đây là những thú chơi tao nhã quen thuộc của người nông dân, có từ ngày xưa. Kim Lân đã viết về các thú chơi này bằng tất cả sự say mê, tin tưởng, rành rọt: “Tuy rằng cùng đàn với nhau mà đàn gà ấy mỗi con một vẻ, mỗi con đánh một đòn, con Ô Mã Mái tảng dày, mi tròn làm cho đôi mắt ếch sâu hoắm vào. Mỏ tam sơn, ba múi, quăm quắm như mỏ diều hâu. Mình củ đậu, đuôi lá vả, tỏ ra có sức bền bỉ, gan góc. Nhất là đôi quản đen bóng, rắn cứng như thép nguội. Hai hàng vẩy một song song chạy từ từ khoeo đến bàn. Quản bên phải, sóng ngang với cựa có một chiếc vẩy rất nhỏ cài vào nữa. Theo những tay chơi, đó là chiếc vẩy cáo, lợi hại lắm. Ai cũng phải chịu là hay. Nhưng đến con Sám Miến Hồng thì mới thực là tài ba có một. Với đôi quản đầy vẩy “khâu dao” chỉ buông không cũng thành cần, cáo. Và nhất là ngón “Thái” vênh vênh kỳ quái, nó đã lấy vừa đúng mười hai con mắt trong mươi hai trận đá. Sám Hồng khét tiếng là con gà kì tài” (Con Mã Mái). Thật giản dị mà vô cùng sống động, cái thú “phong lưu đồng ruộng” của người nông dân trong văn xuôi Kim Lân vừa có nét tinh tế lại vừa rất hóm hỉnh. Bằng ngôn ngữ tự sự mang đầy tính khách quan, nhà văn đã ý thức thể hiện những thú chơi lành mạnh ở thôn quê bằng một giọng kể rất riêng mang đậm “chất quê” và “hồn quê”. Trong các truyện ngắn viết về những sinh hoạt văn hóa, Kim Lân không làm công việc mô tả, khảo sát đơn thuần. Ở các truyện Con Mã Mái, Đôi chim thánh, người đọc có thể cảm nhận được không khí của những ngày quần chim, chọi gà. “Dưới mái đình, những chiếc giải gà buộc lòng thòng. Những vuông lụa điều uốn éo nhẹ nhàng trong cánh gió. Cu Trạm say sưa nhìn. Nó mơ ước một chiếc thắt lưng, trong khi mọi người chàng màng tìm gà kháp đá” (Con Mã Mái).

3. Trong những truyện ngắn viết về phong tục, những thú chơi của người dân thôn quê, ta bắt gặp hình ảnh người nông dân không chỉ biết “cày sâu cuốc bẫm”, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” mà còn nhận thấy ở họ một cuộc sống tinh thần phong phú, lành mạnh và tươi đẹp cũng như những nét tài hoa, thông minh, bặt thiệp. Dường như, người nông dân đã gửi gắm tất cả niềm vui, nỗi buồn vào các thú chơi tao nhã, lành mạnh như những người nghệ sĩ trong sáng tạo nghệ thuật. Bằng sự quan sát và vốn sống thực tế, Kim Lân đã cho người đọc thấy được sự điệu nghệ, khéo léo trong cách thả chim của Cả Thuận: “Đặt lồng chim xuống vệ đường, ông Trưởng cởi dây, rút ống nước đâu đấy, rồi mới quày tay ra sau lưng rút chiếc quạt cạp quần, se sẽ đập vào nan lồng đàn chim xô về một phía nan lồng. Đạp mạnh thêm mấy chiếc nữa, ông mở bật nắp lên. Đàn chim bay ra một loạt, cánh vỗ phành phạch” (Đôi chim thánh). Hội thi thả chim bồ câu là một thú chơi đồng quê có ý nghĩa nhân văn sâu sắc và tinh tế về tinh thần tập thể, về đức tính chung thủy của con người. Bao nhiêu phong tục là bấy nhiêu cách tổ chức, dàn dựng, cách nhìn nhận thẩm mỹ. Sự tài hoa của người nông dân còn thể hiện ở luật lệ, thuật ngữ trong các lễ hội, trong hội thả chim có các thuật ngữ như: “trung chính”, “thượng tiểu tùy”, “vần thượng”, “đại tùy” (Đôi chim thánh); trong chọi gà có: “đòn linh”, “bằng trang”, “hơn xương”, “tháo chái” (Con Mã Mái); trong đấu vật có: “cầm cối”, “má quai xanh”, “xối vả”, ‘bó tay tư”, “bò cắm” (Thượng tướng Trần Quang Khải – Trạng vật).
Viết về các phong tục văn hóa truyến thống, những thú chơi của người dân thôn quê, Kim Lân đã chứng tỏ sự hiểu biết sâu sắc của mình về nông thôn Việt Nam, về người nông dân. Đồng thời, nhà văn cũng thể hiện sự đồng cảm, kính trọng đối với những người dân bình thường mà không tầm thường, giản dị mà không giản đơn. Khẳng định những phẩm chất quý báu của người nông dân, đồng thời Kim Lân khẳng định những giá trị văn hóa của dân tộc. Ý thức dân tộc, niềm tự tôn, tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc là động lực và là chất xúc tác để Kim Lân viết nên những tác phẩm có sức ám ảnh lớn đối với người đọc.
ThS. Bùi Minh Tuấn

Bình luận (0)