Tạp Chí Giáo Dục TP.Hồ Chí Minh
Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước (5-6-1911 / 5-6-2011): Sài Gòn – Ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước

Tạp Chí Giáo Dục

Bác Hồ tại Đại hội toàn quốc lần XVIII Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours năm 1920
Câu thơ hay nhất đúng nhất của một nhà thơ lớn nước ngoài viết về Bác trong ngày Bác mất: Hồ Chí Minh – Người bất chấp thời gian. Chọn thời gian, chọn Sài Gòn để ra đi tìm đường cứu nước đó là bước ngoặt, dấu son thiên tài của Bác Hồ.
Hồi ấy Sài Gòn mới có nhà máy, mới có hải cảng chạy thuyền ba buồm, tàu ra vào chạy bằng hơi nước… Hồi ấy Sài Gòn cũng mới có công nhân đi làm mang guốc mộc, mặc áo vải bà ba. Nhưng Sài Gòn vẫn rất mới đối với Bác: mới lý tưởng, cái mới lịch sử, nhất là cái mới thời đại đến với Bác.
Chuyện ra đi lấy tiền đâu để sống? Đó là câu hỏi của một người bạn muốn cùng đi với Bác. Nhưng chỉ có gặp Sài Gòn, sống trên đất Sài Gòn, làm người dân Sài Gòn Bác mới dứt khoát giơ hai tay lên cả quyết tiền đây”.
Ngày Bác ra đi chỉ có hai bàn tay. Khi Bác về nước lãnh đạo cách mạng cũng chỉ có hai bàn tay. Bài thơ Bác viết bên hang Pắc Bó năm 1941 chuẩn bị cho ngày Tuyên ngôn độc lập 2 tháng 9 năm 1945:
Non xa xa, nước xa xa
Nào phải thênh thang mới gọi là
Đây suối Lênin, kia núi Mác
Hai tay xây dựng một sơn hà.
1. Gặp Sài Gòn cũng là gặp khát khao hy vọng. Sài Gòn là thành phố phía nam Tổ quốc, nơi Bác tập làm quen với cách sống của thành thị trước lúc ra đi, nơi đã in sâu tâm trí Bác nhiều ấn tượng sâu sắc về chế độ thực dân và về những người nghèo khổ.
Sài Gòn là thành đồng của Bác. Nhà thơ Thu Bồn gọi Bác là người thợ dựng thành đồng, là cánh chim đại bàng. Bài thơ Gửi lòng con đến cùng cha viết ngay trên đất thành đồng Sài Gòn trong những ngày Bác mất. Bài thơ khóc Bác thiết tha và hùng tráng:
Có người thợ dựng thành đồng
Đã yên nghỉ tận sông Hồng mẹ ơi
Con đi dưới một vòm trời
Đau thương nhưng vẫn sáng ngời lòng tin
Đã ngừng đập một quả tim
Đã ngừng đập một cánh chim đại bàng. (Thu Bồn)
Gặp cánh chim, gặp con tàu, gặp bão tố cũng là để gặp biển – biển là đường đi, là phương hướng là lòng tin từ thành phố Sài Gòn ra đi của Bác.        
2. Hãy tính từ cái ngày gặp chiếc tàu khách L’Amiral Latouche Tréville của Pháp, câu đầu tiên nhận việc, Bác xưng tên mình là Văn Ba, câu thứ hai: làm được bất cứ việc gì. Anh Ba chính thức xuống tàu, làm phụ bếp. Anh Ba suốt ngày lau chảo, rửa rau. Suốt ngày anh Ba mình đẫm mồ hôi, mình đầy bụi khói khi dưới hầm tàu khi trong hầm than. Nhiều lần anh Ba suýt chết đuối sóng chồm cuốn đổ xuống “bể”.
“Bể” và Bác hai đối cực, hai thử thách được đặt ra. Bài thơ dài Bể và Người chất tư duy, chính luận, nhà thơ Chế Lan Viên nói cái đối cực thứ nhất: Bê – là sự hành trình đi tìm cách mạng cứu nước cứu dân của Bác. Bể – là sự sống trên đại dương, đại dương của sóng, đại dương của bão tố, đại dương sâu thẳm đau thương, nơi không đủ sức cân xứng con người. Đại dương là trùng dương nỗi nhớ xa bờ Tổ quốc, là trùng dương cuộc trường chinh qua bốn biển năm châu:
Ai nói hết những đại dương trong đời của Bác
Những bể cuồng phong, tàu đến buông neo
Những bể lặng, đón vầng dương mọc
Tuổi thanh xuân, Người nghe những thủy triều
… Kẻ đối thủ đầu tiên là bão tố
Bể đau thương, sâu thẳm, bể oai hùng
Phải đủ sức đủ lòng cân xứng nó
… Sóng sóng sóng và trùng dương mặn chát
Tổ quốc ơi, trăm sóng đẩy xa bờ
Đối cực thứ hai là: Người – Người của nghĩa bóng, nghĩa rộng, người của chất người, chất ngọc; còn Người của nghĩa thực, nghĩa cụ thể là anh Ba, là Nguyễn Tất Thành, Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh – thực của một thuở, người làm bồi tàu, kéo neo tàu, người làm lao công quét tuyết, người làm thợ rửa ảnh, người làm tù nhân, người làm chiến sĩ cách mạng.
Bể và Người – phần Người tượng trưng nguồn ánh sáng, vầng hào quang, vầng chính khí, thiên tài thời đại. Đó là một con người gắn liền với một ngày lịch sử: 5-6-1911. Lịch sử trước đó bao nhiêu tiền nhân, thánh hiền, sách vở đúc lại đau đớn thất bại trong tìm hướng, tìm câu hỏi cứu dân, cứu nước… nhưng vẫn thăm thẳm ở trời Âu. Lịch sử gần đây, những nghĩa sĩ, chí sĩ giàu lòng yêu nước, giàu nghị lực tìm đường sáng cho dân tộc nhưng đều sai lầm đường đi, nước bước. Ở Người không nhìn lịch sử bằng mắt, Người nhìn lịch sử ở trái tim mình. Người cũng không lấy hào quang xưa để làm đường đi cuộc đời mình mà lấy chân lý đời sống áo cơm làm lẽ sống, làm con đường ra đi cứu nước.
Ngày 5-6-1911 ngày Bác bước chân xuống tàu, ý nghĩa ở một lịch sử, ý nghĩa ở một ngày theo chân Bác được nêu lên. Nhà thơ Tố Hữu với bài thơ dài Theo chân Bác đặt lại từ nguồn ở nghĩa khí, ở nghĩa cả, nghĩa quân. Theo chân Bác là theo hướng bắt đầu từ chân Bác bước xuống tàu làm đời thủy thủ; bắt đầu từ mảnh đất Sài Gòn; bắt đầu hướng đi cuộc đời của Bác:
Bao nẻo người đi, bước trước sau
Một câu hỏi lớn: Hướng về đâu?
Năm châu thăm thẳm, trời im tiếng
Sách thánh hiền lâu đã nhạt màu.
… Từ đó Người đi… những bước đầu
Lênh đênh bốn biển, một con tàu
Cuộc đời sóng gió. Trong than bụi
Tay đốt lò, lau chảo, thái rau.
3. Trưa ngày 5-6-1911 ngày của bắt đầu Bác kéo neo tàu rời bến. Từ trên bến Sài Gòn, Bác gặp sóng mùa gió bão nhưng mùa sóng không che nổi tầm mắt Bác hướng đến những chân trời. Chân trời cao rộng màu xanh biển trong Bác. Bác muốn tìm một chân trời có thực của khao khát tự do, một chân trời công lý, công bằng đang vẫy gọi.
Từ Sài Gòn ra đi ngày 5-6-1911, tám năm sau (tháng 6-1919) cũng từ Cảng Sài Gòn chuyển về nhân dân Việt Nam bản “Yêu sách 8 điểm của nhân dân Việt Nam” mà Bác đã đại diện gửi đến Hội nghị Versailles, văn kiện như một quả bom nổ giữa thủ đô nước Pháp, là tiếng thét của hàng triệu người Việt Nam. Các nhà yêu nước Việt Nam đã nói “Bầu trời Việt Nam đã xuất hiện một vì sao mới là Nguyễn Ái Quốc”. Ngôi sao mới ấy bắt đầu xuất hiện từ trên bến cảng Sài Gòn.
Từ Sài Gòn, trong Bác mang một hồn nước đến phương Tây tìm cách mạng, tìm tự do, tìm công lý để rồi lại trở về phương Đông, trở về Tổ quốc làm nên một Đảng, làm nên cuộc cách mạng. Theo chân Bác ta nghe hồn nước trong viên gạch sưởi ấm đêm Paris, nghe hồn Bác trong hòn đất khi Bác về biên giới, hồn Bác trong Tuyên ngôn độc lập.
Về phương Đông, ta về phương Đông
Cùng phương Tây giương ngọn cờ hồng (Tố Hữu)
30 năm chẵn sóng gió không khuất phục được Người. Uy vũ không khuất phục được Người. Một Hồn nước nguyên vẹn trong tim ra đi nay nguyên vẹn khao khát trở về như ngày từ Sài Gòn, Người ra đi tìm đường cứu nước. Sài Gòn luôn nhớ Bác. Sài Gòn luôn trong tim Bác. Sài Gòn ghi nhớ công lao Bác đời đời. Sài Gòn gọi Bác đầu tiên, gọi Bác Người chịu khổ đầu tiên trên bến cảng Sài Gòn.
Trường ca Bác Hồ nhà thơ Vĩnh Quang Lê viết về Bác:
… Vì chúng con Bác trở thành người công nhân bốc vác
Để thử thách chính mình trên con đường cứu nước
Để mọi hào quang không cám dỗ nổi Người
Vì chúng con Người đã hóa thành người thợ ảnh
Chụp mọi đau khổ ở trên đời cho con hiểu mọi nỗi đau
Cho ai biết ra đi sẽ biết trở về
Vì nhân dân Người đã trở thành người chịu khổ.n
Sài Gòn tháng 5-2011 
Nhà thơ Trúc Chi

Cùng bạn đọc:
Nhằm tuyên truyền kỷ niệm 100 năm ngày Bác Hồ ra đi tìm đường cứu nước nên loạt bài Hành trình về Trường Sa tạm gác lại một kỳ. Mong bạn đọc thông cảm.
BBT

 

Bình luận (0)