(Tiếp theo và hết)
|
Chủ tịch Hồ Chí Minh – người công dân số 1, Đại biểu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ảnh: T.L
|
Tức tối vì không bắt được Nguyễn Ái Quốc, giận dữ đối với người Anh, các báo thực dân Pháp bịa đặt ra tin rằng, Nguyễn Ái Quốc mắc bệnh lao trong nhà lao Anh và đã chết(!).
Nguyễn Ái Quốc thoát khỏi tù ngục
Giữa những ngày đầu xuân Quý Dậu, Nguyễn Ái Quốc đã thoát khỏi nhà tù của thực dân Anh. Đây là niềm vui, sự may mắn rất lớn cho cách mạng Việt Nam. Được biết, tháng 11-1929, thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã xử Nguyễn Ái Quốc vắng mặt với mức án tử hình. Chúng chỉ chờ bắt được Người là thi hành án. Thực dân Pháp cũng đã treo giải thưởng 75 ngàn đồng tiền Đông Dương (một số tiền rất lớn hồi đó) cho ai bắt được Người. Thoát cảnh tù ngục, nhận lời mời của đồng chí và bè bạn. Người đã lưu lại Hạ Môn nhiều tháng, vừa tìm cách bắt liên lạc với tổ chức, vừa tránh sự theo dõi của mật thám. Sau đó, Người đi Thượng Hải.
Vào một ngày đầu xuân năm 1934, Người lên một chiếc tàu hàng Xô Viết ở Thượng Hải để đi Liên Xô. Sau khi tới Cảng Vla-đi-vô-xtôc (Liên Xô), Người đến Mát-xcơ-va. Tại đây, Người đã gặp lại đông đảo đồng chí, bạn bè thân thiết, trong niềm vui lớn mà sau này được Người diễn đạt lại bằng hai câu thơ: Ba năm lưu lạc lênh đênh/ Nay đã trở lại trong đại gia đình công nông.
Lúc còn ở Quế Lâm (1940), Nguyễn Ái Quốc đã nhận định rằng thời cơ về nước đã tới. Đến cuối năm đó, Người cùng một số cán bộ Việt Nam rời Quế Lâm, đến Nam Ninh rồi đến Tỉnh Tây. Tại đây, Người đã cùng các đồng chí Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Phùng Chí Kiên… mở lớp huấn luyện cán bộ trước khi về nước. 43 cán bộ cách mạng Việt Nam đã theo học lớp này tại làng Nậm Quang (Tỉnh Tây, Quảng Tây, Trung Quốc).
Tổ quốc vào xuân
Ngày 29 tháng Chạp năm Canh Thìn (tức ngày 26-1-1941), lớp học làm lễ bế mạc dưới lá cờ đỏ sao vàng năm cánh, trong khu rừng vắng vẻ rìa làng Nậm Quang. Hôm sau, ngày mùng 1 Tết Tân Tỵ, Nguyễn Ái Quốc cùng với anh em cán bộ đi chúc tết bà con dân làng Nậm Quang. Người mặc bộ quần áo Nùng màu chàm, quần xắn cao, đầu vấn khăn, tay chống gậy. Người đi thăm hỏi từng gia đình, nói chuyện với người già bằng tiếng dân tộc. Theo phong tục người Nùng ở đây, Người tặng mỗi nhà một tờ giấy hồng điều, trên đó Người viết dòng chữ Hán “Cung chúc tân niên” (Chúc mừng năm mới).
Ngày mùng 2 tháng Giêng âm lịch, giữa lúc nhân dân Nậm Quang và khắp nơi đang vui vẻ ăn tết thì Người rời Nậm Quang trở về nước, với sự tháp tùng của các đồng chí Lê Quảng Ba, Phùng Chí Kiên và một số đồng chí khác. Đồng chí Lê Quảng Ba, trong bài Bác Hồ về nước kể: “Chúng tôi ăn cơm sớm đi chào bà con rồi lên đường”.
“Trong bộ quần áo chàm Nùng, Bác như gầy hơn. Ngước nhìn gương mặt sạm sương gió của Người, tôi thấy một dáng vẻ ung dung, điềm tĩnh rất thân quen. Tôi dẫn Bác theo những vệt đường mòn lượn giữa các nếp núi tiếp nối nhau ở vùng biên giới hướng về Cao Bằng. Bác cầm một cây gậy nhỏ, nhưng chỉ khi xuống dốc Bác mới chống. Chân Bác bước mau lẹ, dẻo như thanh niên”.
“Quá chín giờ, mặt trời đã ló hẳn giữa nền trời xanh. Đi một thôi nữa, gặp một làng nhỏ năm sáu mái nhà sàn. Đây là làng Pò Vẩn, một làng có cả cơ sở cách mạng của ta và Trung Quốc”.
“Vượt lên một dốc ngắn rồi xuống một sườn núi dài lởm chởm đá, tôi đã nhận ra cây si mọc không xa một tấm bia. Bác dừng lại, cúi đọc những chữ Pháp và chữ Hán khắc sâu có cả hai mặt đá. Người hướng tầm mắt nhìn vọng hồi lâu về dải đất Tổ quốc trùng điệp…”.(1)
Tâm trạng của Nguyễn Ái Quốc lúc đó là: “Xa rời Tổ quốc đã hơn 30 năm. Đã mất bao nhiêu thời giờ và sức lực tìm liên lạc mà không được. Bao nhiêu năm thương nhớ đợi chờ. Hôm nay mới bước chân về nơi non sông gấm vóc của mình. Khi bước qua cái bia giới tuyến, lòng Bác vô cùng cảm động…”.(2)
Sau đó ít ngày, Người đến ở hang Pắc Bó, với bí danh già Thu. Cũng trong mùa xuân này, Người đã sáng tác bài thơ mô tả cảnh Pắc Bó hùng vĩ: Non xa xa, nước xa xa/Nào phải thênh thang mới gọi là…/Đây suối Lê-nin, kia núi Mác/ Hai tay xây dựng một sơn hà.
Cũng tại đây, Người tiếp tục dịch cuốn Lịch sử Đảng Cộng sản Nga ra tiếng Việt để làm tài liệu huấn luyện đảng viên. Người cũng đã sáng tác bài thơ Tức cảnh Pắc Bó: Sáng ra bờ suối, tối vào hang/Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng/Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng/Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Tháng 5-1941 Người chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 8. Hội nghị đã xác định rõ nhiệm vụ giải phóng dân tộc là nhiệm vụ bức thiết của cách mạng Đông Dương. Hội nghị đã quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất rộng rãi, lấy tên là Việt Nam Độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) nhằm liên hiệp hết thảy các giới đồng bào yêu nước không phân biệt giàu nghèo, già trẻ, gái trai, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị, đặng cùng nhau mưu cuộc dân tộc giải phóng và sinh tồn.n
(1) Xem A Voóc Hồ, NXB Văn hóa dân tộc 1977
(2) Xem Vừa đi đường vừa kể chuyện – NXB Sự thật
Nhà văn ĐOÀN MINH TUẤN
|
Với sự ra đời của Mặt trận Việt Minh, cách mạng Việt Nam chuyển hẳn sang một thời kỳ mới. Hơn bốn năm sau, Cách mạng Tháng Tám thành công. Tổng khởi nghĩa thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Cũng chính từ đó, Tổ quốc ta bước vào một mùa xuân mới – xuân của độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội – từ sức xuân truyền thống của mình.
|


Bình luận (0)