|
Những cựu chiến binh Mỹ từng tham chiến hủy diệt Vĩnh Linh trở lại Vịnh Mốc
|
Dẫn chúng tôi tham quan một vòng, chị Lê Thị Tố Hoài cho biết, di tích địa đạo Vịnh Mốc mở cửa đón khách từ năm 1983. Đến năm 1996, do một số hạng mục xuống cấp nên trung ương đã chỉ đạo và hỗ trợ kinh phí trùng tu, tôn tạo. Ban quản lý đã xây dựng trục đường chính từ khu đón tiếp đến cửa địa đạo dài gần 1km cùng rất nhiều con đường nhỏ dài hàng cây số tỏa đi trong khuôn viên lát bằng đá chẻ màu xanh, hình dáng con đường gấp khúc, nhằm thể hiện một phần cấu trúc của hệ thống làng hầm Vĩnh Linh. Bao bọc khuôn viên trên mặt đất là hàng chục ngàn cây xanh, trong đó chủ yếu là cây tre với đủ loại như hóp, tre vàng, trúc Phật bà, tre tầm vông, tre le le… Cách thể hiện này giúp du khách – nhất là khách nước ngoài hiểu hơn về nét đẹp văn hóa và sự yêu chuộng hòa bình của dân tộc Việt Nam.
Trong câu chuyện về quá khứ hào hùng, chúng tôi được biết, chị Lê Thị Tố Hoài chính là con của chiến sĩ công an vũ trang Đồn 140 năm xưa. Sau khi tốt nghiệp Trường ĐH Bảo tồn bảo tàng Đà Nẵng, chị từ bỏ những lời mời gọi hấp dẫn của công việc ở chốn phồn hoa đô hội để trở về quê hương tình nguyện công tác tại khu di tích này.
Tuy lương ít, công việc lại hết sức nặng nhọc nhưng với chị Hoài, đó không chỉ là kế mưu sinh mà còn là niềm đam mê, lòng tự hào của một người con miền đất cách mạng. “Tôi chọn về đây công tác không chỉ vì tâm nguyện của ba, mà còn vì tâm nguyện của chính mình. Tôi tự hào vì được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này”.
Không được lãng quên quá khứ…
Tháng 4 lịch sử, một buổi sáng đáng nhớ trong cuộc đời làm báo của chúng tôi. Chứng kiến những cái bắt tay, những cái ôm ghì sau bao năm gặp lại của những mẹ, những cụ già tuổi “thất thập cổ lai hy” với các cựu chiến binh còn sống sau cuộc chiến đấu giải phóng miền Nam trở về thăm lại mảnh đất địa đầu tuyến lửa, nước mắt ai cũng đong đầy. Rất đông du khách, các bạn học sinh, sinh viên đến tham quan địa đạo Vịnh Mốc quây quanh các cựu chiến binh già nghe kể chuyện trong niềm cảm phục lẫn tự hào.
Đứng trước một cửa địa đạo mở về phía biển, mẹ Nguyễn Thị Lựu (63 tuổi), một dân quân du kích xã Vĩnh Thạch không giấu vẻ tự hào khi kể cho tôi nghe về quá khứ gian khổ nhưng đầy hào hùng của một thời xẻ đất tìm sự sống: “Ngày ấy, lớp thanh niên trai tráng, mạnh khỏe thì cầm búa, cầm cuốc còn những dân quân du kích nữ đảm nhiệm khâu gánh đất ra biển. Đêm trong lòng đất tối om, chúng tôi quang gánh trên vai dò dẫm từng bước chân, tay sờ vào thành đất để đi. Thời gian đó, sống và chiến đấu tại Vịnh Mốc, sự sinh tử cũng bất thường lắm. Có hôm khi chúng tôi đến đào, chuyển đất lên còn điểm danh đủ mặt nhưng sau trận bom Mỹ, bữa cơm chiều đã thiếu vắng vài đồng đội. Có chị bị trúng bom hy sinh, chỉ còn vài phần thân thể nên khi khâm liệm, chị em đành nuốt nước mắt bái vọng hương hồn đồng đội đang phiêu bạt giữa ngổn ngang hố bom và nước biển. Mất mát, gian khổ chồng chất là vậy nhưng ý chí đánh đuổi kẻ thù đã thắng tất cả”.
Dẫn các bạn sinh viên Khoa Lịch sử về đây tham quan thực tế, cô Lê Thị Tuyết, cán bộ trẻ Trường ĐH Quảng Bình bộc bạch: “Hàng năm, chúng tôi đều có chương trình đưa các em đi thực tế tại các di tích lịch sử. Thế hệ trẻ cần “mắt thấy, tai nghe” về những di sản mà cha anh đi trước đổ mồ hôi và máu hồng để gìn giữ, làm nên nó. Đây là một bài học trực quan cần thiết, rất hữu ích cho các em bởi chính các em sẽ là người truyền lửa cho thế hệ mai sau”.
Chiến tranh đã đi qua 36 năm rồi. Mặt đất nơi địa đầu tuyến lửa hôm nay đã lành lại những hố bom, cây xanh phủ bóng khắp làng quê, ngõ xóm. Như bao nhiêu làng biển bãi ngang chạy dọc triền cát miền Trung, cuộc mưu sinh nhọc nhằn của những người dân miền quê bên chân sóng Vịnh Mốc luôn hướng về phía biển, gắn đời mình với biển cả bao la. Nơi đầu sóng ngọn gió, phận người nhỏ nhoi như hạt cát, và bao nhiêu nắng gió trộn lẫn với mồ hôi cùng với sự vỗ về mong manh của miền gió cát đã làm nên cuộc đời của mỗi cư dân vùng biển. Có lẽ từ xa xưa cho đến bây giờ, những đứa trẻ, người vợ, người mẹ Vịnh Mốc ngày ngày vẫn dõi mắt trên đầu sóng bạc để tìm bóng những con thuyền đánh cá trở về. Con thuyền trở về đất liền mang theo miếng cơm manh áo, chở người thân về với người thân cũng phải đánh vật với những ngọn sóng tràn bờ để vượt qua cái ranh giới hiểm nguy cuối cùng của biển. Nó như một sự giao kèo tạm thời lắng xuống của sự nghiệt ngã may-rủi, mất-còn; như một gạch nối nhỏ li ti giữa đời người bám biển mưu sinh với biển muôn đời.
Nói như chị Hoài, chúng ta hôm nay không những biết trân trọng công sức đã đổ xuống của cha anh mà còn phải hiểu rõ về điều đó để dựng xây đất nước. “Nhiều năm qua, dẫu mỗi ngày có vài lượt trường học dẫn học sinh tham quan thực tế về nguồn tại di tích này, nhưng để thế hệ trẻ hiểu hơn về những gì cha ông ta đã dựng xây, thiết nghĩ ngành giáo dục cần có các chương trình cụ thể, lồng ghép việc học tập trực quan ở các di tích lịch sử vào số tiết học môn lịch sử”, chị Hoài trăn trở.n
Bài, ảnh: Phan Vĩnh Yên
|
Dẫu trong nhọc nhằn, gian khó, người dân làng biển Vịnh Mốc vẫn luôn tự hào về sự kiên trung của những anh hùng đã trở về với cát, vĩnh viễn từ giã mặt biển bao la, đánh đổi mồ hôi, mạng sống của mình trong cuộc chiến đấu giành độc lập.
|


Bình luận (0)