|
Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ ở chiến khu Đ. Ảnh: I.T |
Sau Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2-9-1945 không đầy một năm, nhân dân Nam bộ tự cầm vũ khí đứng lên làm cuộc kháng chiến chống nhiều kẻ thù cùng một lúc đang xâu xé mảnh đất này.
Nam bộ thành đồng Tổ quốc
Hồi ấy, nhiều phong trào như phong trào tòng quân, phong trào sản xuất cho tiền tuyến… được đề ra nóng bỏng, khẩn thiết cùng lời kêu gọi thiêng liêng, giục giã lòng người chuyền đi trong cả nước. Ngay trong giây phút đầu tiên đó, “Nam bộ thành đồng” đã thành một ấn tượng đẹp đẽ trong đời sống kháng chiến, đời sống văn học. Chính vì vậy mà ngay trong những ngày đầu tiên này, Nam bộ cũng tự tổ chức lấy một binh chủng cần thiết cho mình và cho cuộc kháng chiến – binh chủng văn nghệ. Thế là những văn nghệ sĩ từ trong quần chúng, từ trong quân đội, từ trong cán bộ mà đi ra mà hình thành. Từ trong những ngày đầu tập hợp, họ vừa đánh giặc vừa sáng tác, có tác phẩm đầu tiên.
Riêng về thơ, các nhà thơ cùng phải chịu chung hoàn cảnh, điều kiện khó khăn của buổi đầu nên hoạt động theo từng chiến trường của mỗi người, và mỗi người đều có một cách riêng sử dụng “vũ khí” thơ. Có những bài thơ ra đời sau một chuyến đi chiến dịch về đồng bằng hoặc vào đô thị. Có khi giữa giờ phút giáp trận ven đô hay trong cứ các “nhà thơ – chiến sĩ” cũng có ngay những bài thơ kịp thời, nóng hổi. Điều kiện ra mắt những bài thơ nói trên thường ghi lại rất nhanh trong trí nhớ, được tác giả chép vội trong sổ tay hoặc làm lời cho một bài hát.
Không khí kháng chiến của những ngày đầu được đưa vào thơ thật rộn rã tưng bừng, thật tươi vui mới lạ trong bối cảnh chiến đấu gian lao quyết liệt.
Thi tướng Huỳnh Văn Nghệ và vùng đất thơ chiến khu Đ
Sau những ngày địch phản bội Hiệp định sơ bộ 6-3-1946, ta bắt đầu xây dựng chiến khu Đ với muôn vàn gay go cơ cực. Những năm tháng đó, có một người trongChi đội 10 vừa chỉ huy vừa làm thơ khá nhạy bén, đó là anh Huỳnh Văn Nghệ. Thơ anh in trong Tạp chí Tiếng rừng, một tạp chí của đơn vị. Thơ anh cũng rất kịp thời đến tay anh em bộ đội để động viên tinh thần chiến đấu.
Bài thơ Xuân kháng chiến, nhà thơ viết tại chiến khu Đ năm 1946 vẫn là loại thơ bốn câu bảy chữ cổ truyền, nhưng người đọc nhận ra trong đó một cách nhìn, cách cảm, một tinh thần mới rất lạc quan: “Xuân vẫn về đây giữa chiến khu/ Rừng thiêng nay bỗng hết âm u/ Núi non hớn hở thay màu áo/ Suối biếc ngàn reo dưới nhịp cầu”.
Vẫn là thiên nhiên, vẫn là ngoại cảnh nhưng tâm hồn nhà thơ đã có sự đón nhận và giao cảm một cách trực tiếp hơi thở cuộc sống, cho nên sức lay động của ý thơ truyền trực tiếp đến người đọc. Tất cả những gì được chấm phá ở bên ngoài đều không là một cứu cánh mà là sức lay động nội tại, là thế giới rung cảm của nhà thơ. Thường khung cảnh chỉ là nền, từ đó để làm hiện lên những bóng dáng, những con người rất hồn nhiên. Đó là những người lính của chiến khu Đ yêu đời, yêu cuộc sống, làm cho người đọc dễ yêu, dễ mến: “Chiến sĩ từng đoàn dưới nắng tươi/ Bên hoa ngồi kể chuyện vui tươi”.
Cho đến cái giây phút đi ra trận những người lính đó vẫn giữ cái hồn hậu, tươi mát, vẫn giữ cái nồng độ yêu đời thật da diết, thật cởi mở. Tất cả những điều ấy đều nói lên kháng chiến của những ngày đầu sao mà trong trẻo, con người kháng chiến cũng thật trong sáng của cái thuở đầu trần chân đất, quần thắt ống, tay cầm mã tấu hoặc ngọn tầm vông mà bên trong phơi phới một tâm hồn. Và đây cũng là những nét rất mới của thời đại mà bài thơ phản ánh một cách nhẹ nhàng, gợi lên cái đẹp, vừa tươi tắn, vừa sống động: “Phất phơ cờ bay dưới gió xuân/ Quân ca từng khúc nhịp xa gần/ Từng đoàn chiến sĩ đi ra trận/ Có bướm chim đưa tận cuối rừng”.
Cũng trong năm 1946, Huỳnh Văn Nghệ viết bài thơ Tiếng hát Quốc ca. Đó cũng là bài thơ tiêu biểu trong thời kỳ này. Nếu ở những bài thơ trên tác giả nặng phần cảm xúc và bằng một âm điệu nhẹ nhàng, trong trẻo giống như Nhạc rừng của nhạc sĩ Hoàng Việt thì Tiếng hát Quốc ca sử dụng bút pháp tự sự hòa vào cảm xúc để tạo nên một chất thơ rắn rỏi độc đáo. Chuyện về một chiến sĩ bị thương được bác sĩ cưa chân bằng cưa thợ mộc vào những ngày đầu thiếu thốn từng viên thuốc, từng dụng cụ cứu thương. Đấy cũng là một trong những chuyện điển hình được truyền tụng rộng rãi về tinh thần dũng cảm, chịu đựng gian khổ của chiến sĩ chiến khu Đ cũng như chuyện Cây đuốc sống Lê Văn Tám tiêu biểu cho tinh thần Nam bộ thời kỳ đầu kháng chiến. Tác giả viết những câu thơ mang tính chất kể chuyện bởi những chi tiết, bởi những nét thời gian, không gian thực để người đọc vừa nhận ra cái thực 100% của kháng chiến. Từ những chứng kiến đó, tác giả đưa vào cảm xúc, suy nghĩ của nhà thơ bằng những sự việc cụ thể có chắt lọc, có tượng trưng để đạt tới hiệu quả xúc động của bài thơ: “Bác sĩ vừa cưa vừa khóc/ Chị cứu thương nước mắt tràn trề/ Nhìn ảnh Bác Hồ trên tấm vách tre/ Người chiến sĩ vẫn mê mải hát/ Cưa cứ cưa, xương cứ đứt”.
Tiếng hát Quốc ca có được cách diễn tả bình dị, tự nhiên, lại vừa nói được cái bên trong của một ý chí căm thù mãnh liệt bằng những câu thơ khắc họa gân guốc, khỏe khoắn, xúc động: “Trở lên yên ngựa từng bước nhỏ/ Cúi đầu nặng nỗi đau thương/ Nỗi căm hờn/ Bỗng dựng cao đầu ngựa dậy/ Vang trời ngựa hí/ Chí phục thù cháy bỏng dây cương”.
Tiếng hát Quốc ca trọn vẹn là bài thơ có hình tượng độc đáo, chung quanh là những đường viền của sự sáng tạo, của sự cảm xúc chân thành, có sức truyền cảm mạnh mẽ đối với người đọc thời bấy giờ.
(Còn tiếp)
Trúc Chi


Bình luận (0)