|
Thanh niên Việt Nam và thanh niên các nước tham gia trên “Con tàu Thanh niên Đông Nam Á” hằng năm. Ảnh: S.M
|
Tháng 3 là Tháng thanh niên, tôi muốn trò chuyện với tuổi thanh niên về câu chuyện Khi con tàu đã có hướng trong thơ của các nhà thơ. Những bài thơ ấy, các nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam đều nhằm viết tặng tuổi trẻ của mình cũng như tặng cho các bạn đoàn viên – thanh niên.
Khát vọng tuổi trẻ trong thơ
Nhà thơ tiêu biểu của phong trào văn học lãng mạn Xuân Diệu đã ước muốn cưỡng lại quy luật của cuộc đời trong bài thơ Vội vàng: “Tôi muốn tắt nắng đi/ Cho màu đừng nhạt mất/ Tôi muốn buộc gió lại/ Cho hương đừng bay đi”. Cưỡng để giữ cái đẹp của tuổi thanh niên, cái đẹp ngực nở, tóc bồng láng, cái đẹp chim bướm và hương hoa, tài năng và danh vọng. Nhưng làm sao cưỡng nổi, làm sao trái qui luật được. Lãng mạn thì nói vậy. Thanh niên đâu chỉ cái đẹp thân thể, hình thức, tài năng, danh vọng. Cuộc đời còn có ý nghĩa về phẩm giá và tinh thần, con người và cuộc sống nữa. Bài thơ Từ ấy đánh dấu lý tưởng thanh niên của Tố Hữu, và của lớp thanh niên cách mạng: Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ/ Mặt trời chân lý chói qua tim/ Hồn tôi là một vườn hoa lá/ Rất đậm hương và rộn tiếng chim…”.
Tuổi trẻ có lý tưởng, nhưng lý tưởng đâu phải để tượng trưng, đâu phải để làm danh hiệu mỹ miều. Hơn nữa, đây là lý tưởng cách mạng, lý tưởng trong thử thách, thử lửa. Những ngày trong nhà tù của đế quốc, chính là nơi Tố Hữu tìm được hướng đi của mình, hướng đi cho một con thuyền “Đường đi đó nhổ sào lên tôi lái/ Chiếc thuyền tôi vui lướt giữa muôn thuyền” đến hướng đi của một con tàu “Vững lòng tin sẽ nắm chắc thành công/ Như những con tàu giữa biển mênh mông”. Làm con tàu trên một mặt trận không đầy bốn thước vuông không phải không có giây phút trăn trối, nhưng nếu không có lý tưởng làm sao có một niềm tin chắc chắn: “Rồi chiến thắng sẽ về ta chiến thắng/ Và tương lai, ta sẽ chiếm về ta”. Lý tưởng cách mạng của người thanh niên Việt Nam luôn như con tàu trên các mặt trận để đến chiến thắng. Như một Lý Tự Trọng đang tuổi hai mươi với lý tưởng trong một câu nói như một châm ngôn đẹp “Thanh niên không có con đường nào khác là con đường làm cách mạng”. Và Nguyễn Văn Trỗi người thanh niên công nhân đang tuổi hai mươi bốn cũng có câu nói đẹp như một chân lý “Còn giặc Mỹ không ai có hạnh phúc nổi cả”.
Nhà thơ Chế Lan Viên cùng những đoàn quân tuổi trẻ, cùng nhịp trái tim tuổi trẻ trong Tiếng hát con tàu – một tráng ca cũng là tên bài thơ hát về hướng gặp tâm hồn của những người mẹ, người chị kháng chiến, hướng gặp ngày mai của ước mơ xây dựng. Điện Biên Phủ soi sáng cho mai sau, soi sáng cho tiếng hát, cho hồn thơ: “Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc/ Khi lòng ta đã hóa những con tàu/ Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát/ Tâm hồn ta là Tây Bắc, chứ còn đâu/…Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội/ Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga…”. Đó là đoàn xe vào Nam, có khi trong rừng, trong heo hút. Ở đó, ta lại gặp lý tưởng của tuổi trẻ trong tiếng cười thật đáng yêu. Nhà thơ Phạm Tiến Duật bất ngờ gặp được tiếng cười tuổi trẻ trên các đoàn xe không kính giữa cung đường, giữa đỉnh Trường Sơn. Giọng cười trẻ làm giọng thơ đánh Mỹ rất mới rất trẻ trong bài thơ Tiểu đội xe không kính: “Không có kính ừ thì không có bụi/ Bụi phun tóc trắng như người già/ Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc/ Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha…”.
Trên các ngã bảy ngã ba của con đường đánh Mỹ, ở đó lý tưởng của tuổi trẻ vừa làm nên chiến tích vừa âm thầm ngã xuống như bông hoa. Trên ngã ba Đồng Lộc, nhà thơ Huy Cận phát hiện Đồng Lộc một ngã ba khác với mọi ngã ba khác trên đời: “Các ngã ba khác trên đời làm bằng nước, bằng sông, bằng thủy triều lên xuống/ Hay bằng đá, bằng đất/ Bằng xi măng cốt sắt/ Bằng vôi trắng, gạch nâu/ Bằng đèn xanh, đèn đỏ đủ màu/ Hay bằng những sự chênh vênh vấp ngã/ Nhưng ngã ba Đồng Lộc xây bằng xương máu”.
Con tàu trên mặt trận tình yêu
Nói con tàu, nói hướng đi của lý tưởng thanh niên trên các mặt trận, trong đó có mặt trận tình yêu. Mặt trận tình cảm, mặt trận đánh kẻ thù song song bên nhau với tuổi trẻ. Nếu trong thời kháng chiến chín năm “Yêu bầm yêu nước cả đôi mẹ hiền” (thơ Tố Hữu) thì trong thơ Nguyễn Đình Thi bài Nhớ viết lúc 22 tuổi năm 1951 đem lại một chất thơ tình rất mới rất trẻ cho thơ chín năm kháng chiến Việt Nam. Đó là tình yêu em cũng là tình yêu đất nước để sống để bền gan chiến đấu. Tình yêu được soi qua lửa, soi vào lý tưởng để kiêu hãnh làm người: Anh yêu em như anh yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần/ Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước/ Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn…”. Tiếp đến, 20 năm ta làm cuộc kháng chiến lần thứ hai, thơ Nguyễn Đình Thi viết về tình yêu tuổi trẻ trong hoàn cảnh không bình thường. Đó là cuộc chiến đấu ở hai đầu đất nước không thiếu đám mây in bóng vui buồn, không thiếu đôi người yêu như trời nước soi vào nhau nhưng hy vọng có tia lửa, và trong mắt thành trời sao. Tình yêu trong cuộc chiến đấu đó không tách rời bao đồng chí, đồng đội hôm nay. Bài thơ Em bảo anh là lời nhắc, lời dặn của người yêu trong cuộc chiến đấu này, cả hai không tách rời gian khổ, không tách rời sự sống. Tình yêu đi qua sự sống, đi qua chiến đấu, lý tưởng và tình yêu tôi luyện để mình hiểu thêm đời, mình hiểu thêm mình. Có thể nói, Tổ quốc ta như một con tàu, như lời thơ Xuân Diệu trong bài Mũi Cà Mau viết với một giọng thơ hào sảng, sáng chói: “Tổ quốc tôi như một con tàu/ Mũi thuyền ta đó – mũi Cà Mau/ Ở đầu sóng gió, mỏm non sông/ Như ngực anh hùng Lý Tự Trọng/ Cao hơn sóng gió một thành đồng…”.
Nhà thơ Trúc Chi
|
Tôi muốn nói lý tưởng tuổi trẻ là lý tưởng của một con tàu đi tới. Con tàu trên mặt trận chiến đấu và tình yêu. Con tàu không chỉ riêng của mỗi người, của mỗi lý tưởng tuổi trẻ mà là của truyền thống con tàu Tổ quốc.
|


Bình luận (0)