Tôi đến với nghề báo bằng tất cả sự háo hức của một người trẻ, mang trong mình nhiều ước mơ và hoài bão. Gặp ông – nhà báo, cựu chiến binh Lê Bá Dương, tôi hiểu sâu hơn tinh thần cốt lõi của người làm báo. Viết không chỉ để kể chuyện, mà để đấu tranh, gìn giữ và thắp lên niềm tin. Ông bảo tôi: “Làm báo là để bạn đọc thấy được trên mảnh đất từng bị bom cày đạn xới của chiến tranh ngày ấy, hôm nay hoa đã mọc trên miệng hố bom”. Câu nói ấy như một bài học giúp tôi, không chỉ trong nghề mà còn trong cách sống và cách nghĩ.

1.Tôi may mắn được ông nhận lời phỏng vấn cách đây gần 15 năm trước. Do khoảng cách địa lý, cuộc gặp của chúng tôi thông qua một cuộc điện thoại kéo dài hai tiếng đồng hồ. Khi ấy, tôi chỉ là một phóng viên trẻ, băn khoăn tìm cách tiếp cận đề tài chiến tranh, một đề tài khó, rộng và luôn gợi nhiều xúc cảm. Còn ông từng kinh qua chiến tranh, bước qua lằn ranh sinh tử nơi chiến trường lửa đạn. Ngày hòa bình, ông theo nghề báo, trở lại chiến trường xưa từng viết nên những bài báo và những dòng thơ làm thổn thức bao thế hệ. Tôi nhắn tin cho ông qua Facebook. Không ngờ, ông phản hồi rất nhanh, cuộc chuyện trò đầy thân tình và ấm áp.
Ông kể cho tôi về chiến tranh, bằng một giọng kể mạch lạc, rõ ràng, không tô hồng, không bi lụy. Ông kể từng trận đánh, từng mất mát, từng người đồng đội đã nằm lại bên bờ sông Thạch Hãn. Ông kể như thể mọi ký ức vẫn còn nguyên đó, chỉ cần ai chạm nhẹ vào là ùa về đầy ắp. Và ông kể bằng trái tim của một người từng trải, từng viết báo, làm thơ trên chính những tấc đất mà mồ hôi, nước mắt và máu của đồng đội mình đã thấm đẫm. Tôi nhớ mãi chất giọng trầm ấm của ông khi đọc lại bốn câu thơ khắc bên bờ Thạch Hãn: “Đò lên Thạch Hãn xin chèo nhẹ/ Đáy sông còn đó bạn tôi nằm/ Có tuổi đôi mươi thành sóng nước/ Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm”. Không chỉ là ký ức, những vần thơ ấy là cả một triết lý làm báo của ông, rằng viết không chỉ để ghi nhớ mà để đánh thức. Đánh thức trong người đọc sự trân trọng quá khứ, biết nâng niu hiện tại và sống có trách nhiệm với tương lai.
2.Sau cuộc gặp online đó, tôi lại có dịp gặp ông ngoài đời, trong một chuyến đi về chiến trường xưa của ông và đồng đội. Giữa cái nắng gắt tháng bảy, chuyến xe ngược lên Cam Lộ, rồi men theo đường Hồ Chí Minh, rẽ vào lối mòn đất đỏ giữa rừng sâu. Đi mãi đến gần bốn cây số, chúng tôi dừng chân trước một nhà bia tưởng niệm giữa núi rừng Hồ Khê. Nơi đây từng là căn cứ khốc liệt của Trung đoàn 27 Triệu Hải anh hùng.
Giữa rừng hoang tĩnh lặng, ông kể cho tôi nghe về trận đánh ngày 28 tháng 2 năm 1969. Một trận đánh không cân sức, 13 chiến sĩ của Trung đoàn trụ lại chiến đấu chống hơn 700 lính thủy quân lục chiến Mỹ, có xe tăng, máy bay và cả pháo yểm trợ. Họ đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng, hơi thở cuối cùng. Gần ba mươi lăm năm sau, những di hài ấy mới được tìm thấy và quy tập về đây thành một nấm mồ chung. Nhà bia tưởng niệm Hồ Khê được ông và đồng đội xây dựng để tưởng nhớ các đồng đội đã ngã xuống nơi này.
Ông chỉ tay về những vạt sim tím được trồng thành hàng lối đã lên xanh quanh nhà bia tưởng niệm Hồ Khê. “Tụi tôi tự tay trồng đó”. Ông ngồi bệt xuống vạt hoa sim đang nở, đưa đôi tay chai sần từng cầm súng rồi cầm bút nâng niu những chùm sim tím. Tôi hiểu rằng, không có gì ý nghĩa hơn khi những dòng máu đổ xuống được hồi sinh bằng sự sống, bằng hoa nở. Và không ai khác, người làm báo chính là người viết lại câu chuyện hồi sinh ấy. Ông nói với tôi, ý tưởng về một vườn hoa sim Hồ Khê không chỉ là hoài niệm. Đó còn là ước vọng văn hóa. “Sau này, nếu dựng được phiến đá khắc lên những dòng thơ của nhà thơ Hữu Loan, mở rộng vườn sim, làm con đường tốt hơn để người trẻ đến đây check-in thì nơi này sẽ sống mãi. Không phải vì máu đổ, mà vì hoa nở”.
Tôi lặng đi trước cái nhìn xa của ông. Một người cầm bút hiểu rằng lịch sử không chỉ để nhắc nhớ trong nước mắt mà còn cần được thắp lên bằng vẻ đẹp, bằng hy vọng, bằng hành trình đến, ở, trải nghiệm và thấu hiểu. Ông nói: “Người làm báo không chỉ kể lại sự kiện. Chúng ta phải chỉ ra vì sao có sự kiện ấy, cái đẹp nào cần được giữ lại, cái xấu nào cần lên tiếng. Viết làm sao để bạn đọc thấy được bông hoa mọc lên từ miệng hố bom. Khi đó, báo chí mới thực sự có ý nghĩa với cuộc đời”.
3.Tròn 15 năm làm báo, tôi từng đi nhiều, gặp nhiều, viết không ít nhưng chưa có ai khiến tôi thay đổi cách nghĩ về nghề như ông. Tôi đã viết tốt hơn sau lần gặp đó. Mỗi nhân vật tôi gặp, mỗi bài viết tôi chắp bút, tôi đều tự hỏi: “Liệu mình có giúp ai đó thấy được một bông hoa giữa bộn bề hố bom của đời sống hôm nay?”.
Nghề báo, có những chặng đường tác nghiệp dễ dàng, cũng có những chặng đường khó khăn về mặt địa lý. Chưa kể, những trăn trở dể chọn góc nhìn cho một bài viết hoàn chỉnh nhất… nhưng tôi không thấy mệt. Tôi biết, đằng sau trang báo mình viết ra, nếu có một người đọc cảm được cái đẹp, hiểu được một phần lịch sử, thấy lòng mình ấm lại… thì chuyến đi ấy đã không vô nghĩa.
Tôi nhớ, chiều Hồ Khê hôm ấy, hoa sim nở tím cả một vùng đồi. Gió từ núi cuộn về mang theo lời tâm sự rì rầm của những cựu chiến binh cùng đồng đội và cả những nhà báo chưa từng đi qua chiến tranh như tôi đang ghi chép từng dòng để kể lại câu chuyện về sự sống từ một nơi từng là tử địa. Tôi nhìn cựu chiến binh Lê Bá Dương với mái tóc đã bạc gần hết, ánh mắt vẫn tinh anh, lặng lẽ đi giữa những hàng sim như thể ông đang “dẫn dắt” những người đi sau bước qua một cánh rừng ký ức. Và tôi tin, ở nơi ấy, giữa đồi sim tím có một điều thiêng liêng đang âm thầm nảy nở. Giống như nghề báo đôi khi bắt đầu bằng một câu chuyện đau thương nhưng kết lại bằng hy vọng và sắc hoa. Những người làm báo như tôi, đôi khi chỉ cần một câu nói như của nhà báo – cựu chiến binh Lê Bá Dương là đã có thêm động lực cho bao nhiêu mùa chữ nghĩa phía trước. Một câu nói như tia sáng nhỏ, lặng thầm nhưng bền bỉ dẫn đường.
Phan Vĩnh Yên
Bình luận (0)