Cần tinh thần tự giác học
|
Nhà trường không thể hô hào “dạy thật – học thật” chỉ bằng khẩu hiệu. Ảnh: D.Bình
|
Theo tôi, dạy thật – học thật là mục tiêu phấn đấu của cả hai phía thầy và trò. Ai làm công tác giáo dục cũng mong muốn bản thân mình “dạy thật” và người học “học thật”. Tuy nhiên, không phải cứ mong muốn là làm được ngay.
Vậy nên, việc kêu gọi đổi mới toàn diện giáo dục càng cấp thiết hơn. Chúng ta càng chậm đổi mới giáo dục thì cơ hội “vươn xa” càng bị đánh mất. Có dạy thật thì mới học thật được. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có trường hợp giáo viên muốn “dạy thật” nhưng học trò lại học không “thật”. Việc thiếu ý thức tự giác trong việc học của học sinh cũng có những tác động tiêu cực đến người dạy. Đổi mới phải xác định từ đầu là mục tiêu việc dạy và học không phải ở điểm số, ở cái bằng khá giỏi cầm trên tay mà khi ra trường va chạm vào thực tế thì lại không ứng dụng được, không biết “làm” hoặc là không “làm” được. Lấy ví dụ, trường hợp sinh viên học ngành CNTT hẳn hoi, nhưng khi ra trường máy tính hư không sửa được hay là việc sử dụng word, excel, tin học văn phòng cơ bản… thì không làm được không phải là hiếm. Còn có trường hợp sinh viên lặn lội hàng trăm cây số, từ miền quê nghèo khó đến nhưng khi lên lớp lại không tập trung cho việc học, hoặc lơ là hoặc quậy phá hoặc… ngủ gật khiến tiết học bị ảnh hưởng, kết quả học tập kém. Có nhiều ý kiến của giảng viên ĐH cho rằng nên đổi mới cách đánh giá kết quả thi học phần ở bậc ĐH. Hiện nay, việc đánh giá kết quả cuối cùng của một học phần là điểm cộng của các điểm thành phần gồm có điểm chuyên cần, điểm giữa kỳ và điểm thi cuối kỳ mà tùy từng trường theo tỷ lệ có thể là 1:2:7 (tương đương tỷ lệ chuyên cần – giữa kỳ – cuối kỳ) hay 1:3:7… Việc đánh giá chuyên cần ở đây còn tùy vào “quan điểm” của từng giảng viên, có giảng viên cho rằng chuyên cần là phải có mặt 100% trên lớp nên thường vào lớp là điểm danh và cho điểm cuối cùng dựa vào việc sinh viên có đến lớp đầy đủ hay không. Việc này vừa mất thời gian vừa không cần thiết vì ở bậc ĐH tôi nghĩ tinh thần tự giác mới là chính, anh không nhất thiết có mặt 100% trên lớp mà anh cũng có thể tự học, tự nghiên cứu miễn sao kết quả cuối cùng anh nắm được kiến thức và vận dụng được vào thực tiễn. Có giảng viên cho điểm chuyên cần bằng cách lấy điểm giữa kỳ là điểm chuyên cần, có giảng viên sau khi có điểm thi thì lấy luôn điểm thi làm điểm giữa kỳ và chuyên cần thì có thể cho theo việc điểm danh hoặc cho điểm tối đa. Theo tôi, nên bỏ cột điểm chuyên cần và thay vào đó là một cột điểm đánh giá trong kỳ thông qua bài kiểm tra, bài tập lớn hay làm việc nhóm. Và tăng tỷ lệ 2 cột điểm trong kỳ này theo tỷ lệ có thể là 3:3:4 với điểm thi cuối kỳ x4 và 2 điểm đánh giá trong kỳ x3…
Tóm lại, chúng ta không thể dạy thật – học thật bằng câu khẩu hiệu ở cửa miệng hằng ngày. Mà muốn dạy thật – học thật phải xuất phát từ tinh thần tự giác, lòng tự trọng và sự tự tin. Có như thế mới chinh phục được đỉnh cao khoa học bằng tư duy sáng tạo và chính khả năng của mình. Kết quả người học đạt được hay nói cách khác, thành quả đó mang lại có ích cho bản thân, gia đình, xã hội và quê hương mới chính là trái ngọt của cụm từ dạy thật – học thật!
ThS. Nguyễn Hương Giang
(Khoa CNTT, Trường ĐH Quy Nhơn)
|
Hai cách dạy
Đó là chuyện hai thầy cùng dạy tiếng Anh nhưng lại có những phương pháp giảng dạy hoàn toàn trái ngược nhau.
Thầy thứ nhất bám sát sách giáo khoa và trọng tâm chuẩn kiến thức. Người học được hướng dẫn làm thế nào để đạt kết quả tốt khi làm bài kiểm tra hay thi. Những dạng bài tập được thầy thiết kế theo khuôn khổ, cấu trúc của các dạng đề thường gặp và học sinh cứ thế luyện tập cho thuần thục. Hầu như kĩ năng giao tiếp được bỏ qua bởi vì thầy cho rằng: Nghe và nói chỉ chiếm một phần nhỏ trong các dạng đề. Chỉ cần tập trung cho các phần còn lại là có thể đạt điểm tốt. Với quan niệm như thế nên thầy cứ giảng dạy theo cách của mình. Học sinh thì cứ vô tư học vì điểm số của những bài làm luôn khả quan. Các em tin rằng tiếng Anh của mình như vậy là tốt rồi.
Thầy thứ hai thì khác. Thầy không chú trọng nhiều đến sách giáo khoa mà chỉ xem đó là một công cụ phục vụ kiến thức người học. Dựa vào mục tiêu giảng dạy và qua kinh nghiệm của mình, thầy thiết kế những bài giảng theo hướng giao tiếp. Những giờ học tiếng Anh của thầy thật sinh động vì học sinh tham gia nhiệt tình vào các hoạt động học tập: Trò chơi, diễn kịch, thuyết trình… Các hoạt động vừa chơi vừa học như thế không những giúp học sinh nắm vững kiến thức mà còn giúp các em trau dồi kĩ năng giao tiếp của mình. Bên cạnh đó, thầy cũng hướng dẫn học sinh những phương pháp tự học hiệu quả. Dần dần, học sinh của thầy có được sự tự tin với vốn tiếng Anh của mình. Có em còn mạnh dạn trò chuyện với người nước ngoài khi có dịp gặp gỡ.
Trong những buổi họp chuyên môn, thầy thứ nhất thường được khen ngợi vì chất lượng bộ môn lúc nào cũng cao. Trái lại, phương pháp giảng dạy của thầy thứ hai lại bị nghi ngờ vì hầu hết đồng nghiệp của thầy quan niệm rằng: Nếu tập trung nhiều quá vào kĩ năng giao tiếp thì chất lượng làm bài của học sinh sẽ bị ảnh hưởng.
Là một phụ huynh học sinh, tôi đánh giá cao cách dạy của thầy thứ hai. Thầy không chỉ là người truyền thụ kiến thức mà còn là người tạo niềm cảm hứng cho học trò mình trong việc sử dụng tiếng Anh vào thực tế cuộc sống. Ở góc nhìn sư phạm, thầy đã có những hướng đi mới mẻ trong việc dạy và học tiếng Anh. Với việc cải tiến phương pháp giảng dạy, thầy tự làm mới mình chứ không đi theo lối mòn đã có từ bấy lâu nay. Mặc dù những hiệu ứng tích cực của việc dạy và học tiếng Anh như thế chưa lan tỏa nhiều trong cộng đồng nhưng việc làm của thầy thật đáng trân trọng.
Lê Tấn Thời (Chợ Mới, An Giang)
|


Bình luận (0)