|
Bác Võ Văn Quyền, một trong số thợ chính ít ỏi còn lại của “làng ông lò”
|
Cuộc sống phát triển kéo theo sự hiện đại hóa ngay trong nhà bếp của mỗi gia đình. Những chiếc bếp lò dần bị thay thế bởi bếp gas, bếp từ… Đó là một trong nhiều nguyên nhân khiến nghề nắn bếp lò ở Phú Định dần mai một.
Làng bếp lò Phú Định nằm dọc theo Đại lộ Võ Văn Kiệt, đoạn giữa cầu Rạch Ụ Cây và cầu Phú Định, nơi tiếp giáp giữa Q.6 và Q.8, TP.HCM. Theo tư liệu điền dã khảo cổ học, làng Phú Định trước đây nằm đối diện với làng Hòa Lục, ở đó có di tích lò gốm cổ Hưng Lợi. Trải qua bao thăng trầm của nghề, làng Phú Định và Hòa Lục là hai làng cổ còn lưu giữ khá đầy đủ về diện mạo của nghề gốm xưa nói chung và nghề nắn ông lò tại TP.HCM nói riêng.
Hiu hắt làng nghề
Trước đây, làng nghề bếp lò Phú Định có trên 30 hộ gia đình theo nghề của cha ông truyền lại. Cho đến những năm của thập niên 90, con số này chỉ còn 1/3. Trong số ấy, nhiều lò chỉ hoạt động cầm chừng. Theo chỉ dẫn của người dân địa phương, chúng tôi tìm gặp ông Nguyễn Văn Hà, một bậc cao niên của làng bếp lò Phú Định. Ông Hà năm nay đã ngoài 80 tuổi. Ông Hà trước kia là chủ lò có trên 30 lao động. Lò ông Hà được đánh giá là làm ăn khá nhất làng vào thời điểm trước 1975 đến những năm 90. Năm 1998, ông Hà mất sức lao động, giao toàn quyền cho con trai điều hành cơ sở. Một thời gian sau, con trai ông Hà, anh Nguyễn Văn Hoàng bị tai nạn lao động, lò ông Hà phải đóng cửa vì không còn ai kế nghiệp. Ông Hà tâm sự: “Tôi có ba đứa con. Thằng Hoàng bị tai nạn nằm một chỗ. Hai đứa con gái thì lấy chồng, không đứa nào chịu theo nghề. Tôi tiếc lắm. Trước đây, ông và cha tôi nhất quyết không chịu bỏ nghề dù cuộc sống lắm chật vật”. Nỗi niềm của ông Hà chỉ là một trong số ít nguyên nhân dẫn đến làng bếp lò Phú Định trở nên vắng vẻ.
Tốc độ đô thị hóa nhanh cũng là nguyên nhân khiến làng bếp lò nổi tiếng một thời ở Sài Gòn – Gia Định ngày một teo tóp dần. Những năm của thập niên 80, làng bếp lò Phú Định được biết đến với nhiều cái tên như bếp lò Năm Bông, Hai Tẻ, Tám Ứng, A Cúi… Nhưng rồi những cái tên ấy đã mất dần theo năm tháng với nhiều lý do khác nhau. Một vài gia đình còn theo nghề nhưng cũng chỉ dừng lại ở việc mua bếp của các lò khác về gắn thiếc vô bán lại kiếm đồng lời. Như ông chủ lò Mạnh ngày nào là một ví dụ. Từ ngày bỏ nghề, ông Mạnh đâm ra bệnh và yếu hẳn đi. Để thỏa nỗi nhớ nghề bao nhiêu năm nuôi sống gia đình, ông Mạnh đi mua lò của cơ sở khác về bán lại. Nguyên nhân ông Mạnh phải giải nghệ nghề truyền thống của gia đình chỉ vì không thuê nổi đất mở cơ sở.
“Lão tướng” đếm trên đầu ngón tay
|
|
Bác Võ Văn Quyền năm nay đã 66 tuổi. Từ những năm 60, bác Quyền đã trở thành một trong số ít thợ lành nghề của làng bếp lò Phú Định. Tính đến nay, bác Quyền đã có 50 năm trong nghề. Cứ lò này đóng cửa, ông lại dạt sang lò khác tìm việc làm. Cũng đã hơn chục năm nay, bác Quyền trụ ở cơ sở bếp lò Năm Tiếp với vai trò là thợ chính, kiêm dạy nghề cho lớp trẻ. Bác Quyền tâm sự: “Làm cái nghề này cực lại ít tiền. Đó cũng là lý do khiến tụi trẻ chẳng mấy đứa chịu theo nghề. Tuổi mình đã cao nhưng còn lao động được, vừa tự lo cho cái thân già vừa có cơ hội để truyền nghề cho bọn trẻ”. Rít hơi thuốc lá thật dài và sâu, nhả khói cuồn cuộn, bác Quyền nhìn về một nơi vô định. Có thể bác đang hồi tưởng về thời huy hoàng của nghề bếp lò. Đến khi tôi chen ngang dòng suy nghĩ đang miên man trong tâm trí bác, bác giật mình, buồn rượi đầy tâm trạng. “Nghĩ mà buồn, hết đời thợ chính như tôi thì chẳng còn thợ để làm. Lúc vào nghề, chủ lò chỉ cho mình phụ chứ không hề dạy nghề. Không ít người phải bị mất việc, thậm chí bị đánh đập vì tội lén lút học nghề. Bây giờ học nghề còn được hưởng lương, đi về có người đưa đón thế mà chẳng có ai chịu theo”.
Thợ chính được phong “lão tướng” của làng Phú Định chỉ còn đếm trên đầu ngón tay. Người được phong “lão tướng” phải hội đủ hai tiêu chí cơ bản: tuổi nghề và trình độ tay nghề. Hiếm thợ tuổi nghề ngắn có thể làm được tất cả các khâu từ quay lò; nắn gù (tạo ra ba giá trên kiềng bếp lò); cắt gọt; tạo miệng lò… Cũng như một số ngành nghề thủ công khác, nghề làm bếp lò ngoài sự khéo léo của đôi tay, đòi hỏi ở họ lòng yêu nghề và vì nghề cao độ. Nói như bác Quyền: “Nếu không yêu nghề thì làng bếp lò Phú Định nay chỉ còn là cái tên chứ không còn chút phảng phất của nghề gốm – nghề làm bếp lò”. Anh Phan Văn Tâm, nhà ở P.15, Q.8 gắn bó với nghề nặn bếp lò từ thời thiếu niên. Tính đến nay, anh Tâm cũng đã theo nghề gần 30 năm. 30 năm – một quãng thời gian khá ngắn so với tuổi đời của làng nghề Phú Định nhưng lại quá dài đối với một đời người. Hiện Tâm cũng là một trong số ít thợ có tay nghề khéo của làng Phú Định. Tương lai của nghề làm bếp lò sẽ ra sao khi các bậc “lão tướng” đã không còn vướng bụi trần? Các lão tướng của nghề đang dốc hết sức cho nghề, cho kho tàng tư liệu nghề làm gốm đất nung nói chung và nghề nắn ông lò nói riêng để lưu lại những di sản phi vật thể độc đáo của TP.HCM.
Bài, ảnh: Trần Tuy An
|
“Nhiều người bảo hết thời mới theo cái nghề mà người ngợm lúc nào cũng lấm lem bùn đất. Đó là suy nghĩ của mỗi người, riêng tôi nhận thấy, đã theo thì có bỏ cũng không được, duyên-nghề-người như có chất kết dính” – Anh Phan Văn Tâm khẳng định.
|
Kỳ 2: Kỳ công của nghề
Qua nhiều công đoạn phức tạp mới cho cho ra chiếc bếp lò hoàn hảo. Điều này cho thấy sự kỳ công, khéo léo của những người thợ đã dày công làm ra nó.



Bình luận (0)