Đang làm cán bộ ở Sở Thủy sản, anh kỹ sư nông nghiệp Tống Hữu Châu bất ngờ từ bỏ công việc để trở về bươn chải với nghề nuôi cá cảnh. Sau 20 năm, tiếng tăm về đàn cá cảnh của anh đã lừng lẫy khắp nơi, vượt qua biên giới Việt để đến với những đất nước xa xôi như Pháp, Mỹ, Canada…
|
|
“Bốn không” dựng nên nghiệp lớn
Tốt nghiệp ngành thủy sản Đại học Nông lâm TP.HCM, chàng kỹ sư họ Tống có cơ hội khảo sát với nghề nuôi cá ở nhiều trang trại như Trại giống Bình Phú, Trại Nuôi trồng thủy sản quận 11, Nông trại Duyên Hải rồi đến cán bộ Sở Thủy sản… Qua hơn 10 năm làm việc với ngành thủy sản, ông có điều kiện để cọ xát, thực nghiệm những gì mình đã tích lũy kiến thức ở trường đại học với môi trường bên ngoài. Đặc biệt, ông nhận thấy cá cảnh đang là thú vui giải tỏa cơn khát tinh thần cho nhiều người ở các nước phát triển nhưng ở Việt Nam hiếm có ai nghĩ đến việc nuôi để kinh doanh vì lúc bấy giờ loại cá này vẫn chưa phải là thị hiếu của người tiêu dùng Việt Nam. Trăn trở với việc tiếp tục làm một viên chức nhà nước hay về nhà đào ao thả cá đã giày vò ông suốt cả mấy tháng liền, cuối cùng ông cũng quyết định rẽ ngang cuộc đời mặc dù lúc bấy giờ vẫn còn nhiều nuối tiếc.
Trở về nhà với hai bàn tay trắng, cuộc sống bộn bề những khó khăn nhưng ông vẫn quyết tâm tự mình đào ao thả cá với diện tích ban đầu khoảng 3.000m2. Mảnh đất mà ông đào ao nuôi cá cảnh chỉ là một vùng đất trũng, không điện, không nước, không có đường đi và ông cũng chẳng có vốn liếng. Trong tay ông lúc đó hoàn toàn là những con số không tròn trĩnh. Tự tay mình cầm xẻng đào từng mét đất thành ao, rồi tự tay đào rãnh mang nước về ao. Có lúc ông đã kiệt sức phải ngủ lại ngay chỗ cái ao đang đào, và cũng có lúc bế tắc, ông muốn dừng lại để quay trở về với công việc an nhàn trước đây. Thế nhưng, khát vọng làm giàu của anh kỹ sư – anh nông dân vẫn luôn mãnh liệt thôi thúc ông tiếp tục với những dự tính đang còn dang dở.
| Với những thành công trong nghề cũng như những đóng góp của ông đối với bà con nông dân, ông được tặng thưởng nhiều bằng khen như: Huân chương Lao động hạng 3 năm 2001, bằng khen của Bộ Nông nghiệp năm 2002, Huy chương Vì sự nghiệp nông dân Việt Nam năm 2003, bằng khen của Thủ tướng Chính phủ năm 2008 vì đã có nhiều thành tích trong phong trào thi đua, sản xuất kinh doanh giỏi… |
Qua nhiều tháng ròng rã, cuối cùng những chiếc ao nhỏ cũng đã thành hình và chuẩn bị đưa vào sử dụng. Thế nhưng, trái với suy nghĩ ban đầu là chỉ nuôi cá cảnh, ông lại thêm vào đó là cá trê vàng – một giống cá đang được thị trường ưa chuộng. Bởi ông nghĩ “nếu bây giờ tôi chỉ nuôi cá cảnh, chắc chắn những năm đầu sẽ lỗ to và lấy gì để có vốn nuôi cá cảnh, tôi buộc phải nuôi thêm cá trê vàng để có thêm thu nhập mà chăm sóc những con cá cảnh. Vậy là năm 1994, tôi vay 9 triệu đồng của Hội Nông dân phường để làm vốn mua giống, lưới và thức ăn cho cá”. Nhờ những kiến thức sâu rộng về ngành nuôi trồng thủy sản đã được học và vận dụng trước đó, chỉ một năm sau những ao cá của ông đã có tới hàng triệu chú cá bột ra đời được ông cung cấp cho các tỉnh, và số nợ dần dần cũng chấm dứt. Thế nhưng, điều ông trăn trở lúc này là làm sao mở rộng thị trường mua bán cá cảnh.
Lập website xây dựng thương hiệu
Những chú cá cảnh như cá dĩa, cá chép koi, phượng hoàng, và một số cá hoang dã được ông sưu tầm, phối giống rất thành công. Khách hàng là người Đài Loan và nhiều nước khác khi ghé thăm các cửa hàng buôn bán ở quận 5 cũng bắt đầu chú ý đến cá cảnh và tìm cách liên hệ với ông để thu mua với một khối lượng lớn. Cùng thời điểm đó, (khoảng năm 2001-2002), thời điểm mà công nghệ thông tin đã được nhiều người Việt Nam tiếp cận và ứng dụng thì ông, một kỹ sư của ngành thủy sản cũng đã biết đến các thanh công cụ trên máy tính, cách gửi mail để mua bán nên ông liền nghĩ ngay đến việc lập trang web bán hàng trực tuyến qua mạng.
Nếu như làm một trang web ở Việt Nam chỉ mất khoảng 200USD thì ông đã không ngần ngại vay mượn đến 2.000USD để nhờ một người ở Mỹ mở website bán hàng trực tuyến qua mạng. Bởi theo ông, lúc bấy giờ công nghệ thông tin của chúng ta chưa phát triển mạnh, vì thế nếu nhờ nước ngoài làm hộ thì công nghệ sẽ nhanh hơn, tốt hơn, chất lượng đường truyền tốt sẽ giúp cho người mua hàng thuận lợi hơn khi truy cập web. Hơn thế nữa, lúc bấy giờ Việt Nam chủ yếu là sử dụng trang web tĩnh (người dùng không được cập nhật dữ liệu mà phải thông qua người thiết lập), chưa có trang web động nên ông sử dụng phần mềm của nước ngoài để bản thân mình tự cập nhật dữ liệu thường xuyên. Biết được một chút vốn liếng tiếng Anh, cộng với sự giúp đỡ của cộng sự và cũng chính là cậu con trai lớn, năm 2005 website chautongfishfarm.com ra đời. Sự ra đời của trang web đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong bước đầu làm kinh doanh của ông, sản phẩm không chỉ được khách hàng trong nước biết đến mà những khách hàng khó tính ở các nước như Mỹ, Canada, Pháp… cũng bắt đầu chú ý.
Với việc đưa công nghệ thông tin vào ứng dụng trong kinh doanh, thương hiệu Cá cảnh Châu Tống đã có tiếng vang lớn đối với thị trường các nước EU và Mỹ. Đặc biệt, loại cá được ưa chuộng và xuất khẩu nhiều nhất là cá chép cảnh, chiếm tới 50.000 con/ năm với giá dao động khoảng từ 100.000-150.000 đồng/ con cá lớn.
Truyền nghề cho lớp trẻ
Từ khi trại nuôi cá cảnh của kỹ sư Châu được nhiều người biết đến, nông dân các vùng bên cạnh cũng tìm đến ông để xin học nghề. Ông không chỉ truyền cho họ nghề nuôi cá cảnh mà đến ở với ông, họ còn được nuôi ăn, được trả tiền lương mỗi tháng khoảng 3 triệu đồng. Đặc biệt, năm 2008, kết hợp với Hội Nông dân thành phố, ông đã tập huấn và mời những người nông dân thật sự muốn nuôi cá cảnh về thực tập ngay tại trại cá của mình. Sau khóa học, hơn 70% học viên này đã nuôi và thành lập tổ nuôi cá cảnh, toàn bộ sản lượng hàng hóa cá cảnh được ông đảm bảo đầu ra. Cũng từ công việc này, Hội Nông dân thành phố đã hướng dẫn bà con làm dự án vay tiền hỗ trợ nông dân vay vốn lập nghiệp (khoảng 15-20 triệu đồng/ hộ). Còn ông, trở thành một người thầy quen thuộc của Trung tâm Hỗ trợ nông dân thành phố, mỗi khi trung tâm tổ chức cho bà con học tập về ngành nuôi trồng thủy sản thì bất cứ khi nào ông cũng thu xếp để giảng dạy, truyền nghề cho bà con.
Trại cá của ông không chỉ có nông dân tới thăm và học tập mà còn là nơi thực tập của hàng ngàn sinh viên của các trường như ĐH Nông lâm TP.HCM, ĐH Khoa học Tự nhiên, Cao đẳng Vạn Xuân… Đến trại cá, sinh viên được ông hướng dẫn từng ly từng tý cách chăm sóc và nuôi cá cảnh. Ông cho biết: “Mỗi năm có khoảng 100 sinh viên, nghiên cứu sinh đến Trại cá Châu Tống thực tập, nghiên cứu, nhiều sinh viên còn ở lại sinh hoạt hàng tháng để rèn nghề. Vì thế, tôi cảm thấy thực sự vui vì trại cá không chỉ đem lại lợi nhuận cho gia đình mà còn là nơi giải quyết một số công ăn việc làm cho bà con nông dân, đồng thời giúp đỡ được một bộ phận không nhỏ các thế hệ trẻ thực hành, thực nghiệm các bài học ở trường”.
Bài, ảnh: Dương Bình


Bình luận (0)