|
Thương binh đặc biệt Lê Thống Nhứt được Trung đoàn Thủ Đô tặng huy hiệu Võ Nguyên Giáp (ảnh nhân vật cung cấp)
|
Hỏi chuyện tình duyên ngày đó, ông cười nhẹ: “Tôi đánh Tây thì gan cùng mình nhưng chuyện tình yêu thì nhút nhát. Từ đó đến giờ chưa bao giờ biết cầm bút viết thư tình là thế nào”. Có lẽ vì thế mà đã lỡ nhiều cuộc… tình?
Được nhiều cô gái miền Tây yêu
Khi là tổ trưởng tổ trinh liên, trên đường từ Phụng Hiệp về Tầm Vu, đi cùng xuồng còn có hai cô gái tuổi chừng 18, 20. Nhứt để ý cô gái ngồi cuối xuồng, chốc chốc nhìn lên thì thấy cô ấy đang nhìn mình chằm chằm nhưng chẳng nói qua nói lại một câu. Gần đến điểm mà Nhứt phải lên bờ, sợ chia tay rồi không biết khi nào gặp lại. Người chèo xuồng khá lớn tuổi biết Nhứt làm trinh liên, hỏi: “Con có gấp không? Nếu không thì ghé nhà bác chơi”. Nhứt cũng thiệt tình, đáp: “Dạ con đang nghỉ phép”. Người chèo xuồng tiếp: “Thế thì hay quá, nhà còn mấy xị đế, hai bác cháu ta có dịp chuyện trò”. Nhứt sung sướng, phát vào đùi mình cái bốp. Nhứt đâu nghĩ rằng người con gái mà anh sợ phải chia tay lúc nãy lại là con gái đầu của người chèo xuồng. Nhứt ở lại đó nhiều ngày. Đêm trăng sáng vằng vặc, Nhứt và cô gái xuống xuồng tâm tình. Ngày làm hết việc, cô gái lại bảo anh mang quần áo rách ra cho cô vá giúp. Vá hết, Nhứt kiếm cớ để được ngồi cạnh, nghịch yêu bằng cách lấy quần áo lành (những chiếc đã cũ) ra cắt nham nhở rồi đưa cô ta vá. Chia tay, dù chưa thể nói tiếng yêu nhưng họ thầm hẹn nhau và chờ nhau…
Lần khác, trên đường làm nhiệm vụ, Nhứt gặp một người phụ nữ. Sau mới biết bà có hai con trai độ tuổi Nhứt cũng đi kháng chiến, người ta gọi bà là Má. Nhứt hiền lành, thật thà được Má giữ lại nhà dùng cơm. Chồng Má bị Tây bắn chết. Má sống với cô con gái tên Út. Đang chuyện trò với Má ở nhà trên, cô con gái cứ thập thò ở cửa buồng. Đến giờ cơm, cô Út lén lấy hai trái ớt bẻ làm đôi rồi nhét dưới chén cơm. Nhứt biết cô Út cố tình nhưng không phản ứng gì, ngược lại anh càng thích thú với hành vi ấy. Bữa cơm chiều, cô Út không bẻ ớt nữa mà để nguyên trái trên mặt cơm. Nhứt cắn liên tục hai trái. Ngước mặt nhìn, Út cười xinh đáo để. Đêm chia tay, Út thú thật: “Tưởng má dắt anh về coi mắt tui. Mới nhìn anh tui không ưa chút nào nhưng giờ thì…”. Út ngập ngừng. Nhứt như lên chín tầng mây: “Thế bây giờ ưa chưa?”. Cô Út bẽn lẽn, cúi mặt cười duyên. Khi chia tay, họ hứa đều đặn viết thư cho nhau nhưng trong điều kiện thời chiến, phải di chuyển liên tục, những cánh thư chỉ là sự mong đợi trong ngậm ngùi.
Cuối năm 1952, đầu 1953, Nhứt vào cứ gặp một bộ đội quê ở Vị Thanh (nay là thị xã Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang), quê hương của Út. Sau một lúc hỏi han về gia cảnh, người kia hỏi lại: “Anh là Lê Thống Nhứt?” “Sao anh biết?”. Người kia tỏ ra chắc chắn: “Anh có cô người yêu tên Út, quê Vị Thanh. Tôi “đeo” Út hai năm rồi nhưng cổ không chịu. Út nói, Út đã hứa hôn với anh Lê Thống Nhứt rồi và dù thế nào đi nữa Út vẫn chờ đợi anh”. Tim Nhứt như thắt lại. Nỗi nhớ về Út cứ dâng trào, ngự trị trong đầu. Sau ngày tập kết ra Bắc, Nhứt có trở lại Vị Thanh, tìm cô gái miền sông nước Hậu Giang nhưng không gặp, mọi thứ đã đổi thay, làng mạc nhà cửa xác xơ…
Ký ức về người cha nuôi
Lê Thống Nhứt chào đời ở quê ngoại Rạch Giá – Kiên Giang. Cha mất từ khi Nhứt chỉ là cục máu đỏ hỏn. Mãi đến năm lên 8, mẹ đưa Nhứt về An Giang, quê nội. Tuổi thơ của Nhứt lắm cơ cực. Nhứt đi học muộn, học được hai năm thì kháng chiến nổi dậy.
Một lần chèo xuồng qua Trà Niền mũi, Nhứt gặp bậc cao niên tên Nguyễn Văn Nhiễu, quê ở Kiên Giang. Lúc bấy giờ ông Nhiễu sống bằng nghề cưa rễ đước khô bán củi. Nhứt cũng bắt đầu công việc đốn củi đổi gạo từ đó. Qua nhiều người, Nhứt biết ông Nhiễu là người thoát khỏi địa ngục trần gian Côn Đảo trở về vào năm 1930. Như mọi ngày, Nhứt chèo xuồng ra bến đợi ông Nhiễu đi cùng. Đợi mãi không thấy, ngày mai rồi nhiều ngày sau, ông Nhiễu vẫn bặt vô âm tín.
Chiến tranh, dân tình chạy loạn. Nhứt thấy ông Nhiễu khi ông đang cầm cờ đi đầu kêu gọi nhân dân đứng dậy đấu tranh nhưng không có cơ hội chuyện trò. Thời gian này Nhứt theo học võ thuật ở “lò” của một võ sư khá nổi tiếng miền Nam. Trong số 14 học trò, Nhứt là võ sinh duy nhất học được đường quyền Lai thành hồi mã thương, một thế võ độc đáo mà không phải ai cũng học được. Ông Nhiễu lại là người anh em của thầy dạy võ cho Nhứt. Lần uống trà trên xuồng bàn phương án đánh Tây, thầy khoe với ông Nhiễu: “Tôi có đứa học trò cưng, có chí khí, để tôi giới thiệu với ông”. Ông Nhiễu bất ngờ vì gặp lại Nhứt. Ông nói: “Tưởng ai chứ thằng này thì tôi chịu. Tôi cũng đang đi tìm nó đây”. Từ đó, ông Nhiễu đi đâu cũng có Nhứt bên cạnh. Biết Nhứt sớm mồ côi cha, cảm thông hoàn cảnh ngặt nghèo, ông Nhiễu nhận làm con nuôi. Cha mẹ đẻ đặt tên Lê Văn Nhứt, từ khi gặp ông Nhiễu, ông đã đổi Lê Văn Nhứt thành Lê Thống Nhứt với kỳ vọng đất nước sớm thống nhất. Tuổi cao, sức cũng yếu dần, bao niềm tin, hy vọng ông đều đặt ở Nhứt. Ngày đêm ông dạy Nhứt mọi điều, mong con sớm trưởng thành trong môi trường cách mạng. Nhà là xuồng, hai cha con sống chung với nhau ở Kiên Giang được một thời gian ngắn thì phải chạy loạn về miệt U Minh. Ngày 31-12-1946, Nhứt hay tin mẹ mất. Nỗi đau càng lớn khi Nhứt không về kịp để chịu tang mẹ. Nỗi đau này chưa nguôi, nỗi đau khác lại ập đến. Nhứt bị thương khắp người, nặng nhất là chân phải do pháo trong một trận càn tại Cần Thơ vào cuối năm 1953. Sau một thời gian dài điều trị tại trại điều dưỡng thương binh ở Hà Nội, bác sĩ chỉ định tháo khớp nhưng Nhứt một mực không chịu. Nhứt quyết giữ lại để có thể đi bằng chân giả. Ngày Nhứt vào trại điều dưỡng, nghe giới thiệu tên ai nấy đều tỏ ý kính trọng.
Bài, ảnh: Trần Tuy An
Kỳ cuối: Ký ức về các nhà lãnh đạo


Bình luận (0)