Y tế - Văn hóaVăn hóa nghệ thuật

Linh quy trong tâm thức người Việt

Tạp Chí Giáo Dục

Bộ tranh Long – lân – quy – phụng
Linh quy là một linh vật độc đáo thuộc bộ tứ linh “Long – lân – quy – phụng”, vừa là biểu tượng cho sự thiêng liêng, huyền diệu, sự trường tồn, vững chãi, vừa là những biểu tượng thẩm mỹ trong tâm thức và cảm quan của thế giới phương Đông. Đặc biệt, đối với người Việt, linh quy xuất hiện khá sớm, gắn liền với nhiều huyền thoại về quá trình dựng nước và giữ nước.
Tư duy văn hóa Việt vẫn thuần nhất là tư duy sông nước và nông nghiệp của vùng văn hóa Đông Nam Á, linh quy là biểu tượng của thần linh nhưng hết sức gần gũi với cuộc sống của con người. Trong ca dao Việt Nam, có câu hát rằng: “Thương thay thân phận con rùa, Ra chùa đội hạc, vào đền đội bia” để nói về thân phận tội nghiệp của rùa. Điều này, có lẽ xuất phát từ bản tính hiền lành, chậm chạp, chăm chỉ, chịu thương chịu khó của rùa. Tuy nhiên, trong thực tế, hầu hết những chuyện cổ, những giai thoại, thành ngữ liên quan đến rùa đều dành cho rùa một vị trí trân trọng và thiêng liêng tôn quý. Trong truyện ngụ ngôn nổi tiếng kể về cuộc chạy đua của thỏ và rùa, nhờ đức tính cần cù, kiên nhẫn của rùa đã trở thành bài học hay trong cách ứng xử và tranh đua.
Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, thì rùa thuộc cả nam tính và nữ tính, thuộc loài người và vũ trụ. Xét về mặt triết học, rùa là vật linh tượng trưng cho vũ trụ với chiếc mai cong tượng trưng cho vòm trời – dương, bụng phẳng tượng trưng cho mặt đất – âm, trên chiếc mai lại có những ô hoa văn kỳ lạ, biểu trưng cho ký hiệu của trời đất muốn chuyển tải đến loài người. Huyền thoại Trung Hoa cho rằng đời Phục Hy, rùa xuất hiện ở sông Hà, đời Hạ Vũ, rùa xuất hiện ở sông Lạc. Trên lưng rùa ở hai nơi ấy đều có những hình vẽ, những dấu hiệu như những chữ viết, người ta gọi là Hà đồ và Lạc thư – một kỳ thư triết học, diễn tả quy luật biến đổi, tuần hoàn trong vũ trụ. Rùa đã mang sẵn trên lưng những dự báo trong việc quan trắc hiện tượng tự nhiên, rồi từ đó suy ra hiện tượng xã hội. Kinh Dịch là một kho tàng triết học uyên thâm của văn hóa phương Đông và phải nhận rằng rùa đã mở đầu cho triết học ấy.

Bảo ngọc linh quy có trọng lượng 2 tấn, được làm từ khối xa-phia nặng 6 tấn, đặt tại khu trung tâm báo chí của hoàng thành Thăng Long
 
Tuy vậy, xét về lịch sử, con rùa là một đặc sản quý của vùng sông nước phương Nam. Trong sách cổ Ngự phê thông giám tập lãm của Trung Hoa viết: “Năm thứ năm đời vua Nghiêu (2.353 TCN) có người Việt Thường từ phương Nam đến chầu, qua hai lần thông dịch dâng một con rùa lớn sống ngàn năm, vuông non ba thước, trên mai có khắc chữ khoa đẩu (hình giống con nòng nọc) ghi chuyện từ khi mở trời đất. Vua Nghiêu sai chép lấy, gọi là Quy Dịch”. Đoạn văn cổ này cho phép chúng ta đoán rằng: Nam Bắc vốn là hai nền văn hóa khác nhau (phải qua hai lần thông dịch); rùa là đặc sản phương Nam nên được làm quà biếu; phương Nam có văn tự riêng trước Hán và khác Hán (chữ khoa đẩu); phương Nam có những tri thức cổ (chuyện từ khi mở trời đất) và được vua Nghiêu sai phiên dịch, ghi lại (quy dịch).

Linh quy đã xuất hiện trong truyện cổ tích từ thời An Dương Vương

Trong sử sách người Việt, đã ghi chép không ít những con rùa lạ xuất hiện thường được xem là những rùa thần hoặc rùa bảo vật. Khoảng thế kỷ thứ 3 TCN, có chuyện Rùa vàng, tức thần Kim Quy đã cho Thục Phán An Dương Vương mượn thanh bảo kiếm để chém tinh gà trắng, để dựng được thành Cổ Loa. Sau đó, lại cho nhà vua mượn móng rùa để làm nỏ thần, đánh đuổi giặc ngoại xâm phương Bắc. Thần Kim Quy thân thiết với vua, cả đến lúc cùng đường tận lực, vua cũng được thần rẽ sóng nước đi vào cõi vĩnh hằng. Sau sự kiện trên 18 thế kỷ, rùa vàng lại xuất hiện để nhận lại thanh bảo kiếm mà Lạc Long Quân đã cho vua Lê Lợi mượn từ ngày dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn chống giặc Minh. Nhận gươm ở sông Lương, trả gươm ở hồ Lục Thủy (nay là hồ Hoàn Kiếm, Hồ Gươm). Như vậy, rùa vàng không chỉ gắn liền với huyền thoại bi tráng của dân tộc về quá trình dựng nước, giữ nước mà còn gắn với một huyền thoại tuyệt đẹp về tính nhân văn trong việc giữ gìn hòa bình, khép lại chiến tranh bằng hành động trả lại gươm thần. Đây cũng là ước vọng ngàn đời của dân tộc – khát vọng hòa bình.
Trong phạm vi phong tục xã hội của người Việt, rùa là loài bò sát lưỡng cư, có tuổi thọ cao và thân hình vững chắc nên biểu thị cho sự trường tồn. Rùa còn là loài không ăn nhiều, nhịn đói tốt nên được coi là thanh cao, thoát tục. Vì lẽ đó, hình tượng rùa hay gắn liền với hạc, tạo nên cặp quy – hạc khá phổ biến trong chốn dân gian và cung đình. Trong cặp đôi này, hạc đứng trên rùa – biểu hiện yếu tố động (dương) và rùa đội hạc – biểu hiện yếu tốt tĩnh (âm). Đó là biểu hiện của sự ổn định và hòa hợp tự nhiên. Rùa còn được trao cho sứ mệnh cao cả là đội bia đá công đức của các vị hoàng đế, tiền nhân, danh nhân… thể hiện sự “tín nhiệm” của cha ông khi giao cho rùa việc lưu giữ văn hóa, sử sách được trường tồn với thời gian và dân tộc. Ở Việt Nam, hình tượng rùa đội bia đã xuất hiện từ thế kỷ 12, ở chùa Linh Ứng (Thanh Hóa), nhưng đến thế kỷ 15, từ đầu thời Hậu Lê, mới bắt đầu phổ biến. Văn Miếu Hà Nội là nơi còn bảo lưu đầy đủ nhất các tác phẩm rùa đội bia đá của Việt Nam với 82 tấm bia đề danh 1.304 vị tiến sĩ triều Lê, và nhiều tấm bia khác trong cả nước. Thế mới rõ công lao: “Trên đền đội bia, xuống chùa đội hạc” của rùa đã chuyển tải thông điệp về văn hóa tri thức và văn hóa tâm linh của dân tộc.
Hình ảnh thân thương và huyền bí của rùa, đến nay vẫn còn nguyên giá trị tốt đẹp của nó. Đó chính là hình ảnh cụ rùa Hồ Gươm và ngọn Tháp Rùa nổi bật trên mặt nước trong xanh: “Hồ Gươm in bóng Tháp Rùa” vốn thân thuộc và linh diệu của người dân Hà Nội. Như vậy, trong tâm thức người Việt, không chỉ gắn liền với hình tượng rồng bay lên “Thăng Long” mà còn gắn liền với hình tượng linh quy – một biểu tượng của sự hòa bình, ổn định và sự trường tồn vĩnh cửu như mùa xuân đang vẫy gọi.
Nguyễn Hiếu Tín

Bình luận (0)