Bộ Công thương đang lấy ý kiến dự thảo Thông tư về tiêu chí dán mác cho hàng hóa VN được lưu thông trên thị trường nội địa.
Khách mua hàng tại siêu thị Co.opmart Lý Thường Kiệt. ẢNH: Đ.N.T
Lộn xộn hàng Việt
VN đã ban hành nhiều quy định về xuất xứ hàng hóa, trong đó có các yếu tố như thế nào thì một sản phẩm được coi là có xuất xứ VN nhưng chỉ áp dụng cho hàng xuất nhập khẩu để được hưởng ưu đãi thuế theo cam kết tại các hiệp định thương mại tự do. Nhưng đối với hàng hóa lưu thông trong nước, vẫn chưa có quy định cụ thể như thế nào được gắn nhãn “Sản phẩm của VN” hay “Sản xuất tại VN”. Chính vì vậy, hàng “Made in Vietnam” được hiểu khác nhau và cũng được gắn tràn lan. Nhập khẩu linh kiện về VN lắp ráp, với các công đoạn đơn giản lại ghi hàng Việt; thậm chí nhiều hàng hóa được sản xuất tại Trung Quốc cũng ghi “Made in Vietnam”…
Bộ Công thương cũng nhận định, việc thiếu vắng các quy định về việc như thế nào thì một sản phẩm được coi là “sản phẩm của VN” hay “sản xuất tại VN” đã khiến nhiều tổ chức và cá nhân lúng túng khi muốn ghi chính xác nước xuất xứ trên nhãn sản phẩm
Không chỉ bị phát hiện ngay tại cửa khẩu, theo cảnh báo của Tổng cục Hải quan, một số trường hợp mang hàng xuất xứ Trung Quốc vào các khu công nghiệp của VN để lắp ráp, hoặc chỉ gắn nhãn mác bao bì “Made in Vietnam”.
Bộ Công thương cũng nhận định, việc thiếu vắng các quy định về việc như thế nào thì một sản phẩm được coi là “sản phẩm của VN” hay “sản xuất tại VN” đã khiến nhiều tổ chức và cá nhân lúng túng khi muốn ghi chính xác nước xuất xứ trên nhãn sản phẩm.
Đạt tỷ lệ giá trị gia tăng 30%?
Theo dự thảo do Bộ Công thương đưa ra, sản phẩm được dán nhãn hàng hóa của VN hoặc sản xuất tại VN (gọi chung là hàng hóa của VN) nếu có xuất xứ thuần túy hoặc được sản xuất toàn bộ tại VN, như cây trồng và các sản phẩm từ cây trồng, khoáng sản… Trường hợp hàng hóa không được sản xuất toàn bộ tại VN nhưng trải qua công đoạn gia công, chế biến cuối cùng và đảm bảo 2 tiêu chí về chuyển đổi mã số (mã HS) và hàm lượng giá trị gia tăng… thì được coi là hàng hóa của VN. Cách xác định hàm lượng giá trị gia tăng được xác định theo 2 công thức gián tiếp hoặc trực tiếp.
Vẫn chưa có quy định chi tiết thế nào là hàng Việt. Ảnh: Ngọc Dương
Để xác định rõ hơn điều này, Bộ Công thương đưa ra phụ lục kèm theo cụ thể từng mặt hàng với mã HS khác nhau để xác định tỷ lệ hàm lượng giá trị gia tăng nội địa với phần lớn các sản phẩm này có tỷ lệ phải đạt mức 30% trở lên. Ngoài ra, các sản phẩm còn phải vượt qua khâu gia công đơn giản như phân loại, thay đổi bao bì đóng gói, dán nhãn sản phẩm… mới được gọi là hàng Việt.
Một chi tiết được nhiều chuyên gia lưu ý trong dự thảo là công thức tính hàm lượng giá trị gia tăng. Ông Đỗ Hòa, chuyên gia tư vấn chiến lược, Giám đốc Công ty tư vấn Tinh hoa Quản trị, cho rằng điều này hoàn toàn không chính xác. Bởi cụm từ trị giá nguyên liệu đầu vào có xuất xứ VN phải bao gồm trị giá của nguyên liệu mua từ các nhà sản xuất trong nước, tự sản xuất, chi phí nhà xưởng, khấu hao nhà xưởng, nhân công, thiết kế…
Việc lượng hóa các chi phí đầu vào để xác định tỷ lệ 30% để gắn mác xuất xứ VN là điều khó làm và quá phức tạp. Giả sử một sản phẩm nông sản, doanh nghiệp (DN) nhập giống từ Trung Quốc, mua phân bón từ Thái, thuốc trừ sâu của Mỹ… thì đầu vào tính 30% thế nào?
“Theo tôi, sở hữu thương hiệu mới quan trọng, mới xác định được hàng đó là thuộc sở hữu của nước nào. Thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa đó được đăng ký tại VN, bởi doanh nghiệp VN, tức có phần vốn chiếm phần lớn, hàng DN sản xuất được gọi là hàng của VN. Còn lại, hàng DN nước ngoài chiếm vốn quá 50%, sản phẩm thuộc sở hữu trí tuệ của DN nước ngoài, thì không nên “vơ” là hàng hóa VN. Thông tư cần chi tiết hơn để DN dễ thực thi đúng luật”, ông Đỗ Hòa nhận xét.
Chuyên gia kinh tế Bùi Trinh cũng đánh giá dự thảo quá chung chung, đặc biệt trong công thức tính hàm lượng giá trị gia tăng theo dự thảo là chưa chính xác. Bởi giá trị gia tăng là thuật ngữ kinh tế đã được giải thích từ xưa đến nay và trong công thức này gọi tên đó là không phù hợp. Nếu muốn quy định tỷ lệ nội địa hóa hoặc vẫn giữ nguyên công thức trực tiếp thì có thể gọi là hàm lượng VN trong giá trị hàng hóa đó.
Ý tưởng, thiết kế phải của DN Việt?
Ông Vũ Vinh Phú, nguyên Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội, thì lại cho rằng, để một sản phẩm gọi là hàng Việt phải xuất phát từ ý tưởng, thiết kế những bộ phận cơ bản nhất của sản phẩm. Ví dụ một chiếc xe máy thì động cơ phải do DN trong nước sáng chế, có bản quyền mới nên gọi là hàng Việt.
Thông thường, người ta hiểu nôm na gọi là hàng của quốc gia đó như hàng Việt, hàng Mỹ, hàng Nhật hay hàng Trung Quốc thì tối thiểu ý tưởng sản phẩm, thiết kế sản phẩm và thương hiệu sản phẩm phải được dựng lên từ quốc gia đó. Trong khi chiếc điện thoại Samsung cho dù sản xuất tại Bắc Ninh hay Thái Nguyên với tỷ lệ nội địa hóa VN lên cao hơn 30% thì cũng không ai gọi đó là hàng Việt. Nó chỉ có thể gắn nhãn sản xuất tại VN.
Hay như xe máy Honda hoàn toàn sản xuất ở VN thì bất kỳ người nào cũng biết đó là hàng Nhật. Bởi vì bản quyền là của người Nhật và cho dù nhà sản xuất có tăng tỷ lệ nội địa hóa tại VN thì thương hiệu đó cũng là của họ. Chính vì tiêu chí mù mờ nên theo ông Phú, thời gian qua việc thống kê báo cáo sản phẩm tại các siêu thị đều có sự nhầm lẫn và cao hơn quá nhiều so với thực tế. Bởi siêu thị có nhiều hàng hóa của các tập đoàn đa quốc gia đang sản xuất tại VN nhưng không thể gọi đó là hàng Việt, theo ông Phú.
Ở góc độ luật pháp, luật sư Trương Thanh Đức, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty luật Basico, nhận xét việc xác định thế nào là hàng nhập khẩu và hàng Việt còn tương đối đơn giản. Thế nhưng, khi dự thảo của Bộ Công thương được ban hành, những sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng dưới 30% thì ghi nhãn mác là gì? Nếu hàng nhập khẩu nguyên chiếc thì DN mới được phép ghi “Made in China” hay “Made in Korea”…
Trong khi đó, nếu DN nhập khẩu nguyên phụ liệu từ nhiều nước về lắp ráp, sản xuất thì bắt buộc ghi nhãn hàng hóa như thế nào? “Nếu hàm lượng của hàng hóa chỉ đạt từ 10 – 29% thì DN ghi đó là hàng gì? Nếu những hàng này mang đi xuất khẩu thì có ghi là “Made in Vietnam” hay không? Trong khi đó DN đưa ra tiêu thụ ở thị trường nội địa thì người tiêu dùng sẽ gọi là hàng gì? Theo tôi đây cũng là một lỗ hổng quan trọng cần phải được cơ quan nhà nước sớm nghiên cứu, hướng dẫn”, luật sư Đức nói.
Theo Bộ Công thương, dự thảo được xây dựng dựa trên các bộ quy tắc xuất xứ hiện đang áp dụng cho hàng xuất khẩu từ VN. Các phương pháp xác định xuất xứ chủ yếu của thế giới như xuất xứ thuần túy (WO), hàm lượng giá trị khu vực (RVC) hay chuyển đổi mã sản phẩm theo Hệ thống hài hòa mô tả và mã hàng hóa (Hệ thống HS) của Tổ chức Hải quan thế giới đều được áp dụng.
Bộ Công thương cũng nhấn mạnh, thông tư sẽ không làm phát sinh thêm chi phí cho DN bởi ghi nhãn hàng hóa và công bố nước xuất xứ trên nhãn hàng hóa từ lâu đã là yêu cầu bắt buộc theo Nghị định 43/2017 của Chính phủ. Các DN chân chính sẽ không phải đối diện với nguy cơ cáo buộc “gian lận xuất xứ”, tránh được rủi ro kiện tụng và mất uy tín với người tiêu dùng. Ngoài ra, kết hợp với việc thực thi nghiêm túc Nghị định 43 tại cửa khẩu, thông tư cũng sẽ giúp loại bỏ dần tình trạng hàng nhập khẩu nhập nhèm “đội lốt” hàng VN như đã xảy ra trong thời gian qua.
|
Theo Mai Phương – Nguyên Nga/TNO
Bình luận (0)