Sự kiện giáo dụcVấn đề - Sự kiện

Mở rộng thị trường xuất khẩu để cứu doanh nghiệp

Tạp Chí Giáo Dục

Tại TP.HCM, Bộ Công thương vừa tổ chức Hội nghị Tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh và đẩy mạnh xuất khẩu. Tại đây, Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên cho biết, quý I-2023, báo cáo của Chính phủ đã đánh giá mặc dù nỗ lực rất cao nhưng tăng trưởng GDP chỉ đạt 3,32%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cả nước cũng như nhiều địa phương thấp hơn so với kế hoạch và thấp xa so với cùng kỳ năm trước. Do đó, nếu không kịp thời tìm những giải pháp để tháo gỡ thì khó có thể đạt được mục tiêu cho năm nay và cho cả chu kỳ 5 năm, 10 năm tiếp theo…


Th trưng xut khu ca nhóm thy sn st gim đáng k

Nhóm ngành nào cũng gp khó khăn

Báo cáo của Cục Xuất nhập khẩu cho thấy, so với cùng kỳ, kết quả xuất nhập khẩu 3 tháng đầu năm 2023 đạt 79,3 tỷ USD, giảm 11,8%; kim ngạch nhập khẩu đạt 74,5 tỷ USD, giảm 15,4%. Xuất khẩu, nhập khẩu giảm ở cả khu vực doanh nghiệp (DN) trong nước và khu vực DN FDI.

Xuất khẩu sang thị trường châu Mỹ đạt 24,6 tỷ USD, giảm 19,4%; châu Âu đạt 12,4 tỷ USD, giảm 9,7%; châu Phi giảm 11,2%, châu Đại Dương giảm 3,7%, châu Á đạt 38,7 tỷ USD, giảm 7,3%. Trong đó, nhiều nhóm hàng giảm sâu như nhóm hàng công nghiệp đạt 67,8 tỷ USD, giảm 12,7%; nhóm nông, thủy sản đạt 6,8 tỷ USD, giảm 7,8%; nhóm nhiên liệu và khoáng sản đạt 1,03 tỷ USD, giảm 1,6%. Đáng chú ý, một số ngành hàng chủ lực có kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh như ngành hàng điện tử, máy tính, đặc biệt may mặc đạt 7,2 tỷ USD, giảm 17,7%; xơ – sợi dệt đạt 941 triệu USD, giảm 35%.

Chỉ ra nguyên nhân của tình trạng này, ông Nguyễn Hoài Nam – Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam – cho biết, do tình hình lạm phát khiến tiêu dùng tại các nước suy giảm. Nhiều DN dù đã ký hợp đồng nhưng khách hàng dời lại khiến lượng hàng tồn kho nhiều. Việc xuất khẩu giảm khiến dòng tiền chậm về. Nguồn vốn tín dụng hạn hẹp dẫn đến các DN chế biến, xuất khẩu không có nguồn vốn để mua nguyên liệu.

“Với tình hình hiện nay, dự báo xuất khẩu thủy sản tiếp tục đối mặt nhiều khó khăn trong năm nay bởi các thị trường xuất khẩu chính như Mỹ, châu Âu, Nhật Bản đều suy giảm mạnh”, ông Nam lo lắng.

Theo đánh giá của Bộ Công thương, những ngành hàng có thị trường xuất khẩu chính là Hoa Kỳ, EU như dệt may, da giày, gỗ, thủy sản là những ngành sụt giảm nhiều nhất; trong khi đó các ngành hàng có thị trường xuất khẩu chính là châu Á như cao su, gạo, rau quả, hạt điều… ít chịu tác động hơn.

Ngoài lạm phát cao, sức mua sụt giảm thì chi phí nguyên liệu vật tư đầu vào tăng cao trong khi mức giá xuất khẩu không tăng làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm, các DN sản xuất cầm chừng tránh rủi ro.

Bên cạnh đó là yếu tố hàng rào kỹ thuật, biện pháp phòng vệ thương mại. Một số ngành hàng như thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ, sắt thép, sản phẩm nhựa đang đối mặt với các áp lực về điều tra phòng vệ thương mại.

Ông Diên cho biết, thời gian qua Việt Nam đã ký các hiệp định thương mại song phương, đa phương nhằm thuận lợi hóa thương mại để thúc đẩy sản xuất trong nước. Tuy nhiên một số nước phát triển lại dựng lên các rào cản kỹ thuật như chuyển đổi năng lượng xanh sạch, sản xuất cacbon thấp… Những chính sách này là luật chơi mới trong cuộc đua không cân sức bởi những nước phát triển đã đi trước chúng ta rất xa, có điều kiện hơn chúng ta rất nhiều. Trong bối cảnh như vậy người sản xuất – kinh doanh, DN, nhất là sản xuất – kinh doanh và DN trong nước là những đối tượng chịu sự tác động nhiều nhất.

Cn có gói tín dng đ thu mua nguyên liu

Là ngành hàng xuất khẩu với kim ngạch hàng chục tỷ USD mỗi năm, song dệt may đang đối diện với những thách thức lớn từ sự sụt giảm của thị trường, nhất là ở các thị trường chủ lực như Mỹ, EU.

Theo đó, ông Trần Như Tùng – Phó Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam – đề xuất cần tăng cường xúc tiến thương mại, chương trình làm việc giữa Việt Nam và các quốc gia để mở rộng thị trường xuất khẩu thông qua tham tán thương mại; trong đó tập trung vào các quốc gia trong khối Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và EU – những nơi mà Việt Nam đã ký những hiệp định thương mại song phương. Đặc biệt, xây dựng và quảng bá thương hiệu về ngành dệt may Việt Nam; hợp tác với đối tác nước ngoài để đào tạo nguồn nhân lực về thiết kế thời trang, sản xuất nguyên phụ liệu.

Đối với thị trường trong nước, cần thực hiện linh động các gói vay ưu đãi để trả lương cho người lao động như gói vay Ngân hàng Chính sách xã hội đã thực hiện trong giai đoạn Covid-19 để giúp DN phần nào giảm áp lực tài chính trả lương cho người lao động, giữ chân lao động trong giai đoạn khó khăn hiện nay.

Về trung, dài hạn, ông Tùng cho rằng, để phù hợp với chiến lược của ngành dệt may cần hỗ trợ một phần tài chính và chuyên gia trong việc thực hiện các dự án xanh hóa như giảm nước thải, chất thải, sử dụng năng lượng tái tạo, nguyên liệu tái chế, giảm sử dụng hóa chất, chuyển đổi số để tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Đồng thời Nhà nước nên có chính sách giảm thuế thu nhập DN 2% cho các DN đáp ứng tiêu chuẩn xanh và hỗ trợ lãi suất cho các dự án chuyển đổi xanh.

Đối với ngành nông nghiệp, ông Nguyễn Hoài Nam – Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam – thông tin, các ngành xuất khẩu chủ yếu vay USD với lãi suất vay trước đây khoảng 2,1-2,3% thì giờ đã lên đến trên 4%. Trong bối cảnh khó khăn hiện nay, nguồn tiền không có nhưng DN vẫn phải duy trì thu mua nguyên liệu, vậy nên cần giảm lãi suất vay đối với USD để dòng tiền không bị nghẽn. Đồng thời, Chính phủ cần có gói tín dụng khoảng 10.000 tỷ đồng với lãi suất thấp để phục vụ nhu cầu thu mua nguyên liệu giúp nông ngư dân duy trì việc nuôi trồng, sản xuất.

“Đây chỉ là giải pháp mang tính giai đoạn nhưng rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay”, ông Nam nói.

Với mặt hàng gạo, dù việc xuất khẩu đang có thuận lợi khi nhu cầu thế giới tăng, giá gạo ở mức cao. Tuy nhiên, theo ông Nguyễn Ngọc Nam – Chủ tịch Hiệp hội Lương thực Việt Nam, dù đạt nhiều kết quả ấn tượng song hiệu quả mang lại cho DN, người dân chưa tương xứng. Các DN trong ngành chủ yếu là DN nhỏ và vừa nên nguồn tài chính hạn chế, khi tới mùa vụ thường thiếu vốn để thu mua lúa gạo.

“Do đó Ngân hàng Nhà nước cần có cơ chế chính sách tín dụng cho ngành gạo”, ông Nam kiến nghị.

Ông Nguyễn Đình Tùng – Phó Chủ tịch Hiệp hội Rau quả Việt Nam – cũng kiến nghị Ngân hàng Nhà nước coi sản phẩm trồng trên đất là tài sản để được thế chấp, vay vốn. Như sầu riêng mỗi năm người dân phải đầu tư khoảng 50 triệu đồng/ha nhưng không được coi là tài sản để thế chấp, điều này vô tình gây khó khăn cho người trồng, sản xuất kinh doanh…

Linh Anh

Bình luận (0)