Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Môn lịch sử: Cần nhận thức đúng khi đổi mới phương pháp

Tạp Chí Giáo Dục

Một tiết học môn lịch sử ở bậc THPT. Ảnh: Anh Khôi
Việc đổi mới dạy học môn lịch sử đã được tiến hành nhiều năm nhưng không hiệu quả. Bên cạnh những nguyên nhân thuộc về cơ chế quản lý và đường lối thực hiện đã được các nhà giáo dục chỉ rõ, còn có một số vấn đề cần được nhận thức đúng dựa trên khoa học giáo dục hiện đại.
Thứ nhất, chương trình học là pháp lệnh, không phải sách giáo khoa (SGK)! Môn lịch sử có hẳn chương trình học riêng được Bộ GD-ĐT soạn thảo và ban hành. Tuy nhiên, hầu hết giáo viên (GV) phổ thông không được biết đến sự tồn tại của chương trình học mà chỉ có trong tay quyển SGK để làm phương tiện dạy học. Khi dạy học, GV dựa hoàn toàn vào nội dung SGK, không được nói khác SGK, cũng không được dạy những nội dung vượt khỏi SGK (dù người dạy – người học có quan điểm, tư liệu khác và cập nhật hơn SGK) và khi tranh luận khoa học, làm đáp án cho các đề thi thì “chân lý” nằm ngay trong SGK. Nói một cách hình ảnh hơn, GV lịch sử trở thành công cụ “phát thanh” cho SGK. Sự đồng nhất chức năng của chương trình học với chức năng của SGK (thể hiện qua thuật ngữ thông dụng “chương trình – SGK” đã dẫn đến nhận thức rất sai lầm: SGK là pháp lệnh.
Khoa học giáo dục hiện đại đã phân biệt rất rõ ràng chức năng của chương trình học với chức năng của SGK. Chương trình học là văn bản pháp lý (mà ta vẫn gọi là “pháp lệnh”) buộc GV phải tuân thủ; còn SGK, mặc dù được biên soạn dựa trên chương trình, chỉ là công cụ để GV và học sinh (HS) sử dụng trong quá trình dạy – học. Do vậy, công việc của Bộ GD-ĐT là nghiên cứu và biên soạn chương trình học để cấp cho GV thực hiện; còn GV, khi dạy học, có quyền lựa chọn bộ SGK thích hợp với mình, hoặc viết và dùng sách của chính mình hoặc tự do tham khảo các thông tin từ sách, báo, internet… mà không cần SGK. Sự đổi mới này cần thêm một điều kiện nữa là: Nguyên tắc “một chương trình, một bộ SGK thống nhất” cần được thay thế bằng nguyên tắc “một chương trình, nhiều bộ sách”.
Thứ hai, không thể chỉ đổi mới riêng phương pháp dạy học. Việc dạy học lịch sử ở trường phổ thông thường được bắt đầu bằng hoạt động kiểm tra bài cũ, sau đó GV giới thiệu bài mới, giảng giải một vài nội dung kèm theo, đặt một số câu hỏi và cuối cùng là đọc cho HS chép tóm tắt nội dung được trình bày trong SGK để về nhà học thuộc. Cho rằng kiểu dạy học vừa nêu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng HS không chịu học lịch sử, Bộ GD-ĐT đã phát động phong trào đổi mới phương pháp dạy học lịch sử theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS bằng các biện pháp như dạy học nêu vấn đề, dạy học lấy HS làm trung tâm, soạn “giáo án điện tử”… Nhưng khi áp dụng vào thực tế, việc đổi mới phương pháp dạy học lại tạo ra nhiều khó khăn cho cả GV và HS. Chương trình lịch sử phổ thông được xây dựng theo kiểu tiếp cận nội dung nên có dung lượng kiến thức rất nặng nề lại được dạy trong khoảng thời gian rất ít (từ 1-2 tiết/tuần). Trong điều kiện này, nếu GV áp dụng các phương pháp dạy học gián tiếp (như dạy học dựa trên vấn đề, dạy học phát hiện và khám phá…) thì phải đối mặt với nguy cơ “cháy giáo án” và không theo đúng phân phối chương trình của bộ. Mặt khác, cách đánh giá hiện nay cũng chỉ yêu cầu HS “thuộc bài” theo SGK thì những ý tưởng mới mẻ, nhận thức riêng mà HS có được trong quá trình tranh luận, tham khảo thêm các tài liệu sẽ không có điều kiện để thể hiện hoặc nếu có thể hiện thì chưa hẳn đạt điểm số cao. Do vậy, đặt ra các vấn đề để HS thảo luận trở thành việc làm vô ích nên GV vẫn quay về hai phương pháp chính đã trở nên quen thuộc: Giảng bài, phát vấn với mục đích làm sao cho HS dễ nhớ các sự kiện để dễ học bài!
Mọi sự đổi mới sẽ không mang lại hiệu quả thực sự nếu trong khâu quản lý, cơ chế quan liêu không được thay thế bằng cơ chế dân chủ – khoa học.
Thứ ba, thay đổi cách thức kiểm tra – đánh giá. Đối với môn lịch sử, HS sẽ được đánh giá chủ yếu theo tiêu chí “thuộc bài” qua các bài kiểm tra miệng (học thuộc 1 bài), kiểm tra 15 phút (viết, học thuộc 1 hoặc 2 bài), kiểm tra 1 tiết (viết, học thuộc khoảng 3 bài), kiểm tra kết thúc học kỳ (viết, học thuộc khoảng 3-5 bài), còn nếu được chọn làm môn thi tốt nghiệp THPT thì HS sẽ phải học thuộc lòng toàn bộ nội dung của chương trình lịch sử 12… Mặc dù mục tiêu bộ môn (trình bày trong chương trình học) và mục tiêu bài học được xác định gồm 3 lĩnh vực học vấn: Nhận thức, kỹ năng, thái độ – tình cảm nhưng trọng tâm đánh giá của GV chỉ là lĩnh vực nhận thức, không quan tâm đến hai lĩnh vực còn lại, còn việc lựa chọn công cụ đánh giá là luận đề (tự luận) hay trắc nghiệm lại tùy thuộc vào chủ ý của GV. Với kiểu đánh giá như vậy, môn lịch sử đã trở thành nỗi ám ảnh đối với quãng đời đi học của HS.
Thuộc lòng những vỏ kiến thức trống rỗng là điều không cần thiết và việc đánh giá HS không thể là hoạt động cảm tính. Khoa học giáo dục hiện đại đã chỉ ra nguyên tắc quan trọng nhất khi tiến hành đánh giá là: Đánh giá nhất quán với mục tiêu. Theo đó, bên cạnh việc tham khảo những định hướng đánh giá trong chương trình học thì mục tiêu bài học là cơ sở quan trọng nhất để GV tiến hành việc đánh giá thành quả học tập của HS. Mục tiêu bài học (được phát biểu theo khuôn mẫu hiện đại) sẽ xác định phạm vi đánh giá, chỉ dẫn việc lựa chọn công cụ phù hợp để đánh giá toàn diện 3 lĩnh vực học vấn: Nhận thức, kỹ năng, thái độ – tình cảm. Từ nhận thức này, thay vì ra những câu hỏi gợi nhớ kiến thức một cách máy móc, GV có thể sử dụng bài trắc nghiệm (test) để đánh giá trình độ biết, luận đề (essay) để đánh giá trình độ hiểu, hay bắt đầu những đề tự luận bằng cụm từ “Cảm nhận của bạn về…”, “Bạn đồng ý đến mức nào về nhận định sau…” hoặc giao cho nhóm HS thực hiện một dự án (project) nào đó… Khi việc đánh giá môn lịch sử không còn là những đề kiểm tra “thuộc bài” nữa thì hoạt động dạy học mới có thể được tiến hành một cách chủ động, sáng tạo.
Hồ Thanh Tâm
(ThS. lịch sử, GV Trường THPT Gia Định, TP.HCM)
Nếu chỉ đổi mới riêng phương pháp dạy học mà không đụng chạm đến chương trình học nặng nề, giữ nguyên kiểu kiểm tra thuộc lòng thì việc đổi mới sẽ không hiệu quả. Do vậy, việc đổi mới dạy học cần phải tiến hành đồng bộ ở tất cả các yếu tố cơ bản trong quá trình giáo dục là mục tiêu, nội dung, phương pháp và đánh giá vì giữa chúng tồn tại mối quan hệ tương tác.
 

Bình luận (0)