Những điều kỳ diệu đã diễn ra trong một thế giới ao hồ nhỏ bé, như một cuộc sống thần tiên, ảo diệu, ngây thơ đang làm xao động mặt nước ao hồ, với những sương mù, khói tỏa, những ngôi nhà nhỏ xa xăm, những con cá trêu cợt người câu, những chú trâu chen chúc xô đẩy dưới nước, những ông tướng trẻ măng, oai phong lẫm liệt đọ gươm chiến đấu, những chú rùa, chú ngỗng, hàng tre, bụi chuối, con tàu… Tất cả như một cuộc xáo trộn trong một thế giới thu nhỏ, hòa cùng âm thanh, tiếng nói, ánh sáng, tạo nên một cảm giác kỳ ảo với nhiều cảm xúc. Thật hấp dẫn, vui tươi, ngây thơ, và nhiều thông điệp… Đó là nghệ thuật múa rối nước Việt Nam – một linh hồn nông nghiệp đã làm cuốn hút bạn bè thế giới khắp bốn phương.
Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam – một linh hồn nông nghiệp đã làm cuốn hút bạn bè thế giới khắp bốn phương
Múa rối nước loại hình nghệ thuật “độc nhất vô nhị”
Nghệ thuật múa rối có ở nhiều dân tộc, nhiều quốc gia như: Rối bóng ở Bali, Indonesia; Bunraku ở Nhật Bản; Rối dây ở Trung Quốc; Rối đen ở Mỹ… nhưng múa rối nước thì rất độc đáo và hiện chỉ có duy nhất ở Việt Nam.
Trong dân gian, người Việt vẫn truyền miệng câu ca dao: “Mồng năm mồng bảy tháng ba/ Chùa Thầy mở hội, hai là chùa Tây/ Nhân dân đông đúc vui vầy/ Dưới phô rối nước, trên bày cờ hoa”. Điều này đã phản ánh, nghệ thuật múa rối nước như loại hình diễn xướng hòa chung với không khí của những lễ hội, phong tục của người Việt xưa. Truy nguyên về nguồn gốc, không ai biết chính xác, múa rối nước ở nước ta được ra đời từ bao giờ. Căn cứ theo các truyền thuyết, huyền thoại lịch sử, trò rối nước có mặt từ thời An Dương Vương xây thành Cổ Loa, năm 255 TCN, gắn liền với tập tục nghi lễ, hội hè của người Việt cổ. Còn qua các tư liệu truyền miệng từ dân gian thì rối nước có thể ra đời vào khoảng thế kỷ 2-3. Căn cứ theo sử sách văn bia, múa rối nước được xác định vào năm 1121 (nhà Lý). Tác giả Hà Huy Hồng trong cuốn “Nghệ thuật múa rối nước Việt Nam” (NXB Văn hóa, Hà Nội, 1974), đã viết: “Múa rối tồn tại ở Việt Nam cho đến nay trên dưới 1.000 năm, phát triển mạnh nhất vào thời Lý – Trần (TK XI-XII). Từ những con rối riêng lẻ của một số các cá thể phát triển thành những phường rối với nhiều tích, trò hay, lạ, đẹp mắt rồi được đem ra biểu diễn, thi tài phục vụ nhân dân. Năm 1121, múa rối nước được đưa vào biểu diễn để mừng thọ vua. Từ đây nghệ thuật múa rối nước đã trở thành thú chơi tao nhã của nhân dân đồng bằng sông Hồng và đến nay đã trở thành một loại hình nghệ thuật truyền thống trong dân gian được giữ gìn, bảo tồn và phát huy, đại diện cho nền nghệ thuật cổ truyền Việt Nam”.
Thật vậy, vùng châu thổ sông Hồng với đặc điểm tự nhiên là giàu tài nguyên “nước”, nghề nông là nghề chính, đã hình thành nền văn hóa làng xã, rất đa dạng về lễ hội truyền thống. Đây là cơ sở để cha ông ta sáng tạo nên các loại hình nghệ thuật dân gian, trong đó có múa rối nước. Múa rối nước từng được người Pháp trân trọng là gọi là “linh hồn của nông nghiệp Việt Nam”, là loại hình nghệ thuật đặc sắc của nền văn hóa lúa nước. Từ một loại hình nghệ thuật mang yếu tố dân gian, múa rối nước đã nhanh chóng trở thành nghệ thuật sáng tạo “độc nhất vô nhị”, có thể sánh vai với những loại hình nghệ thuật sân khấu tao nhã, cao sang truyền thống khác như: tuồng, chèo, kịch nghệ… Tinh hoa của múa rối nước đã vượt ra khỏi không gian nước nhà, được nhiều sự ngưỡng mộ của bạn bè thế giới.
Thế giới thần tiên trong ao hồ huyền ảo
Mặt nước, đồng ruộng, hồ ao, nét điển hình của cảnh sắc đồng quê Việt Nam, cũng chính là cảm hứng và điều kiện quan trọng nhất cho sự ra đời của một hình thức nghệ thuật lấy mặt nước làm sân khấu cho các trò diễn, tạo nên một ấn tượng dân gian lý thú và đòi hỏi nhiều kỹ thuật phức tạp, công phu hơn so với múa rối cạn.
Sân khấu rối nước không phải là cái sàn gỗ, không phải là sợi dây, cũng không phải là cái que điều khiển con rối như trên cạn, mà tất cả đều được thực hiện dưới nước, làm trò dưới nước. Nghệ sĩ dùng mặt nước làm sân khấu (gọi là nhà rối hay thủy đình), phía sau có phông che, xung quanh trang trí cờ, quạt, voi, cổng hàng mã… Buổi diễn rất nhộn nhịp với lời ca, tiếng trống, mõ, tù và chen tiếng pháo chuột, pháo thăng thiên, pháo mở cờ từ dưới nước lên, trong ánh sáng lung linh và màn khói huyền ảo, tạo ra một không gian vừa hư hư, thực thực. Loại hình này thường diễn ra vào dịp lễ, hội làng, ngày vui, ngày Tết, dùng con rối diễn trò, diễn kịch trên mặt nước.
Nghệ thuật rối nước như là những bức tranh phản ánh một cách chân thực, sinh động về cuộc sống của những người nông dân trong sinh hoạt đời thường, từ đó, chúng ta nhận thức được mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội thông qua các câu chuyện kể, hiểu được lao động, sinh hoạt, khát vọng và ước mơ về cuộc sống ấm no của người nông dân Việt trong tiến trình phát triển của lịch sử. Múa rối nước rất xứng đáng là một di sản độc đáo của dân tộc, rất cần gìn giữ, nhất là trong thời đại công nghệ này, bởi lẽ nó chính là báu vật của quốc gia, là linh hồn của đồng ruộng Việt Nam. |
Những “diễn viên chính” thường được tạo hình là: người nông dân mộc mạc, thiếu nữ bình dị… hoặc những nhân vật lịch sử: Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Nguyễn Trung Trực… và cảnh quan gần gũi với ruộng đồng: đàn trâu, đàn cá, ngỗng, cây tre, bụi chuối… Nhân vật quan trọng nhất trong múa rối nước là nhân vật chú Tễu. Trải qua nhiều năm, người Việt từ chốn cung đình cho đến các làng mạc ai ai cũng yêu mến chú Tễu và coi Tễu chính là linh hồn của rối nước, là cầu nối giữa người biểu diễn và người xem. Mở màn, chú Tễu xuất hiện vui vẻ, nghịch ngợm làm nhiệm vụ giáo đầu dẫn chuyện. Tễu được làm to hơn tất cả các con rối khác mặc dù dựa vào cách để tóc trái đào của chú thì Tễu mới chỉ bảy, tám tuổi!
Xét về giá trị thẩm mỹ, khác với các loại hình nghệ thuật khác, sức hấp dẫn, lôi cuốn người xem thường thông qua kịch bản, ngôn ngữ văn học, và thể hiện bằng nghệ thuật diễn xuất của người diễn viên. Còn ở múa rối nước, sức hấp dẫn chính ở hành động của con rối. Theo nhà nghiên cứu Tô Sanh nhận định: “Múa rối là loại hình nghệ thuật sân khấu có khả năng truyền cảm một cách cao độ; sự phối hợp giữa kỹ thuật và nghệ thuật tạo hình, kỹ thuật và điều khiển, con rối là phương tiện chủ yếu”. Múa rối nước được xem là một văn phạm thị giác được viết ra bởi những nhận thức tinh nhạy của con người. Bởi lẽ, rối nước có thể đến với những cộng đồng người ở khắp nơi trên thế giới, thuộc những nền văn hóa khác nhau, những ngôn ngữ khác nhau.
ThS. Nguyễn Hiếu Tín
Bình luận (0)