|
Với vợ chồng nhà giáo Hoàng Hữu Đản, mùa xuân luôn mang đến thật nhiều hạnh phúc
|
Một mùa xuân mới nữa lại về. Mùa xuân năm 2012 này thật sự có ý nghĩa với nhà giáo Hoàng Hữu Đản khi ông bước vào tuổi 90. Sống gần trọn một thế kỷ mà đôi mắt ông còn tinh anh, nụ cười luôn hồn hậu và chất hiền triết vẫn ẩn sâu trong từng câu nói, lời văn.
Có một thời gian mê sân khấu và tập tành viết kịch bản, cái tên soạn giả Hoàng Hữu Đản được tôi liệt vào danh sách những thần tượng “đằng sau cánh màn nhung” để mình theo chân nối gót. Tuy “văn kỳ thanh bất kiến kỳ hình” nhưng mỗi lần đọc cuốn sách “Bí mật vườn Lệ Chi”, tôi càng khâm phục hơn trí tuệ uyên thâm và chiều sâu lịch sử của một nhà viết kịch trước cách mạng lúc tuổi đời chỉ mới 20.
Năm 1942 bản thảo vở kịch “Bí mật vườn Lệ Chi” hoàn thành và kịp ra đời để chào đón kỷ niệm 500 năm ngày mất người anh hùng trung quân ái quốc Nguyễn Trãi. Ngay từ thời đó, giới phê bình sân khấu đã đánh giá cao thành công của vở kịch về tính xác thực và những bài học soi rọi chân lý và lẽ phải cuộc đời. Điều đó càng được minh chứng rõ hơn khi 5 năm trở lại đây sân khấu kịch Idecaf tại TP.HCM đã tập trung một dàn diễn viên hùng hậu làm sống lại vở “Bí mật vườn Lệ Chi” và công diễn tại chỗ 200 buổi liên tục. Được xem kịch của tác giả Hoàng Hữu Đản nhiều người vẫn nghĩ ông là một soạn giả chuyên nghiệp. Thế nhưng ít ai biết rằng viết kịch chỉ là nghề tay trái của một con người gần 40 năm theo nghiệp “gõ đầu trẻ”.
Tiếng gọi quê nhà
…Sinh ra và lớn lên trong những năm tháng đầu tiên của thế kỷ 20 với bao biến cố, cậu bé Đản theo anh rể thoát ly gia đình từ rất sớm. Tuy gia đình khá giả và cha mẹ giàu có nhất làng Minh Lệ nhưng cậu bé quyết lập thân bằng con đường học vấn. Được học ở một ngôi trường dòng nề nếp tại Thanh Hóa và sau đó thi đậu tú tài mà anh thanh niên Hoàng Hữu Đản trở thành “ông phán” tại tòa sứ Pháp. Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám như một luồng gió mát làm đổi đời bao kiếp người và cũng là cơ hội vàng cho tầng lớp trí thức ra tay giúp đời. Theo tiếng gọi của quê nhà, ông trở về mảnh đất Quảng Bình tham gia công tác kháng chiến như một cách trả nghĩa. Nghề giáo cũng bắt đầu đến với ông khi được Ty Giáo dục giao cho trách nhiệm làm hiệu trưởng một trường tiểu học trong làng. Lúc này cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp không chỉ đòi hỏi người dân biết chữ mà phải có nhận thức về lập trường tư tưởng chính trị. Chính vì thế ngoài những buổi lên lớp, thầy giáo Đản còn lao vào công tác tuyên truyền vận động nhân dân tăng gia sản xuất, tham gia đánh giặc. Bục giảng của ông không chỉ bó hẹp trong lớp học mà được vươn rộng ra ngoài vùng chiến khu, vùng địch hậu… Người anh trai thầy Đản là phó chủ tịch huyện nên gia đình ông nhanh chóng trở thành địa chỉ rất tin cậy của ủy ban lãnh đạo kháng chiến. Sẵn có tấm lòng với cách mạng và Cụ Hồ, cha mẹ ông không bao giờ tiếc cơm gạo, tiền bạc để “chiêu đãi” các đoàn cán bộ mỗi khi lấy ngôi nhà mình làm trụ sở để hội họp.
Hạnh phúc khi được làm thầy
Năm 1954, khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng. Biết những vùng mới giải phóng thiếu giáo viên và trường lớp ông tình nguyện ra tận Hà Tĩnh để mở trường và dạy học. Chỉ vài năm làm thầy giáo ở đất Thạch Hà mà ông có thêm những người đồng nghiệp và học sinh đáng quý như Trần Quốc Nghệ, Trần Hậu Toàn, Phan Trọng Luận, Phan Huy Lê… Trong “gia phả” của ngành giáo dục Hà Tĩnh đến nay thầy giáo Hoàng Hữu Đản vẫn được nhân dân nơi đây tôn kính và ghi ơn trong sự nghiệp trồng người. Mảnh đất hiếu học chỉ nuôi ông bằng khoai nưa, cà nhút nhưng đã bồi đắp trong ông tình yêu nghề nghiệp và trách nhiệm của một người thầy chân chính. Cho đến khi có một gia đình nhỏ, thầy giáo Đản mới chịu chia tay với bạn bè đồng nghiệp để ra tận Bắc Giang tiếp tục theo đuổi với nghề dạy học. Thế nhưng với ông, dạy học trong kháng chiến là giai đoạn khó khăn nhất nhưng cũng là quãng đời đẹp nhất với bao kỷ niệm của tình người. Nhiều đêm trên tay xách ngọn đèn dầu đi qua những cồn cát trắng để đến với lớp học bình dân rồi cùng học trò ở lại trồng rau cấy lúa giúp dân. Tình cảm thầy trò thắm thiết, gần gũi đẹp như trang giấy trắng. Nhớ về những ngày tháng xa xôi đó, ông đánh giá: “Tuy nền giáo dục cách mạng còn non trẻ nhưng vẫn tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của một nền giáo dục chất lượng tốt. Tuy mới đi ra từ lầm than nô lệ nhưng ý thức làm chủ tri thức đã được người dân đón nhận như một niềm khát khao mà nhiều năm chờ đợi”. Đó cũng là cơ hội để cho những người thầy như ông làm tròn trọng trách của mình.
Trách nhiệm với nghề viết
Câu chuyện giữa chúng tôi lại kéo dài thêm một lúc khi ông chuyển sang lĩnh vực sân khấu. Theo ông, một soạn giả “cứng tay nghề” trước hết phải hiểu biết nhiều về lịch sử. Nhà viết kịch nhất là về đề tài lịch sử không chỉ là một nhà văn mà còn phải là một nhà nghiên cứu sử. Không chỉ hiểu tường tận “thâm cung bí sử” mà người nghiên cứu phải có một quan điểm lịch sử đúng đắn và đặc biệt là lập trường nhân bản rõ ràng. “Sân khấu sẽ tẻ nhạt nếu như trên sàn diễn chỉ có những sự kiện được mô tả trần trụi mà không có những lý giải về hành động kịch. Bằng cách này hay cách khác, tác giả phải “khui” cho ra được động lực tạo nên ngòi nổ trong câu chuyện”. Khắt khe với nghề nghiệp và cả chính mình, phải chăng vì thế mà các vở kịch chính sử của soạn giả Hoàng Hữu Đản tuy không “đồ sộ” về số lượng nhưng lại tinh túy về chất.
Đời nhà giáo đem đến cho vợ chồng ông cuộc sống đạm bạc, nhàn tản nhưng tất cả cũng không ngăn cản bước chân của những đứa con ông tiếp tục nối nghiệp cha. Không chỉ ba cô con gái là giáo viên dạy giỏi mà dâu rể cũng là những người đam mê nghiệp phấn trắng. Dù không sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Quảng Bình đầy gió cát nhưng con cháu của ông vẫn giữ được cái gốc lâu bền của tinh thần hiếu học và ham chữ nghĩa.
Hương Thủy
| Vào những ngày Tết, trong ngôi nhà vợ chồng ông không chỉ có sắc hồng của những cánh đào tươi mà còn có nụ cười, tiếng nói của đàn con cháu dâu rể đùm đề và từng tốp học trò cũ tóc xanh đã phai màu như cô giáo Tôn Tuyết Dung, bác sĩ Nguyễn Minh Châu, kỹ sư Liêu Đức Trung… |


Bình luận (0)