Năng lực của cán bộ đào tạo nghề tại doanh nghiệp (DN) quyết định đến chất lượng làm việc của người lao động, đảm bảo cho DN không mất chi phí đào tạo lại. Vì vậy, tiêu chí lựa chọn, khung pháp lý, chế độ đãi ngộ… cho đối tượng này phải được chú ý để thu hút sự tham gia của DN trong đào tạo nghề.
Học sinh Trường TC nghề Kỹ thuật Công nghệ Hùng Vương trong giờ thực hành
Giảm thiểu chi phí đào tạo lại
Ông Đinh Trường Việt (Trưởng phòng Kỹ thuật và sản xuất, Công ty Ishisei Việt Nam – đối tác đào tạo của Trường CĐ Công nghệ Quốc tế Lilama 2) khẳng định: “Nâng cao năng lực người làm công tác đào tạo nghề tại DN sẽ giúp học sinh, sinh viên có kiến thức chuyên môn và thái độ làm việc phù hợp với yêu cầu thực tế của DN, đảm bảo nguồn cung lao động cũng như giảm thiểu chi phí phải đào tạo lại”.
Ông Nguyễn Xuân Thành Nam (Trưởng khoa Kỹ thuật thoát nước và Xử lý nước thải, Trường CĐ Kỹ nghệ II) cho biết trường đang thí điểm khóa đào tạo phối hợp bao gồm các giai đoạn đào tạo được kết nối chặt chẽ với nhiều công ty từ tháng 11-2015 đến tháng 10-2018. Chương trình được đánh giá và thi tốt nghiệp lấy tiêu chuẩn nghề của Đức làm tham chiếu. Theo đó, người làm công tác đào tạo nghề tại DN được học hành bài bản chính là chìa khóa thành công của mô hình đào tạo phối hợp. Tuy nhiên, để đạt hiệu quả cao, người đào tạo nghề tại DN phải biết lập kế hoạch các giai đoạn đào tạo tại DN theo chương trình đã được xây dựng, phối hợp chặt chẽ với nhà trường. Đồng thời hướng dẫn người học trong các quy trình làm việc ở môi trường công việc thực thụ, hỗ trợ các em phát triển năng lực xã hội (tính kỷ luật, làm việc nhóm…).
Là cán bộ đào tạo nghề tại DN nhiều năm, bà Lê Thị Thùy Trang (Công ty Thoát nước đô thị TP.HCM) chia sẻ: “Người đào tạo nghề tại DN phải có chuyên môn vững vàng và năng lực sư phạm tốt. Nội dung đào tạo phải dựa trên chương trình đã phát triển và mức độ chuyên môn thực tế của cán bộ đào tạo, điều này thể hiện qua các bài test và các kỳ thi thử”. Theo bà Trang, chọn người đào tạo nghề phải có ít nhất 3 năm làm việc trong lĩnh vực liên quan; sẵn sàng chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm và gắn bó lâu dài với DN… “Cán bộ đào tạo nghề tại DN cần được trang bị phương pháp sư phạm dựa trên modul đào tạo thực tế tại DN. Bên cạnh đó cần có đủ khung pháp lý về vai trò, nhiệm vụ, quyền và nghĩa vụ của người đào tạo, đánh giá và cấp chứng chỉ cho người đào tạo tại DN…”, bà Trang đề xuất.
DN chưa chủ động hợp tác với trường nghề
Ông Hoàng Thái Sơn (chuyên viên Vụ Đào tạo chính quy thuộc Tổng cục GDNN, Bộ LĐ-TB&XH) thông tin: Tại Việt Nam, tỷ lệ DN có đào tạo nghề cho lao động chiếm rất thấp (tỷ lệ chung là 36,29% và thấp nhất là các DN ngoài Nhà nước: 30,18%). Ông Sơn cho biết các DN chưa thật sự chủ động tham gia hợp tác với cơ sở GDNN, chủ yếu là tự chủ đào tạo. Người làm công tác đào tạo nghề tại DN phần lớn là cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người có tay nghề cao được DN phân công làm công tác hướng dẫn thực tập, chưa có nhiều hoạt động thực hành.
Chuyên môn của cán bộ đào tạo phải gắn với khung trình độ quốc gia Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, lao động kỹ thuật có tay nghề là yếu tố then chốt để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam. Hệ thống GDNN đóng vai trò quan trọng trong vấn đề này, trong đó quan hệ hợp tác chặt chẽ với DN sẽ đảm bảo các hoạt động GDNN hiệu quả và đáp ứng đúng nhu cầu của thị trường. Nắm bắt được yêu cầu này, từ năm 2015, chương trình Đổi mới đào tạo nghề Việt Nam đã thí điểm mô hình đào tạo phối hợp giữa nhà trường và DN trong các nghề cơ điện tử, cơ khí – cắt gọt kim loại (CNC), điện tử công nghiệp và kỹ thuật viên xử lý nước thải tại Trường CĐ Công nghệ quốc tế Lilama 2 và Trường CĐ Kỹ nghệ II. Theo mô hình này, DN tham gia chặt chẽ trong tất cả các khâu của quá trình đào tạo, từ phát triển chương đến triển khai và đánh giá đào tạo. Đề cập đến vai trò của cán bộ đào tạo nghề tại DN, TS. Harry Stolte (Học viện Hợp tác quốc tế GIZ – Đức) cho rằng tiêu chuẩn về trình độ hoặc năng lực hồ sơ là điểm tham chiếu đáng tin cậy cho các hệ thống phát triển chuyên môn. Theo đó, trình độ chuyên môn của cán bộ đào tạo phải gắn với khung trình độ quốc gia. Yêu cầu về năng lực đối với cán bộ đào tạo có thể được thể hiện theo các quy định như: Tiêu chuẩn nghề nghiệp quốc gia, tiêu chuẩn trình độ, tiêu chuẩn và khung năng lực, mô tả công việc cụ thể của từng DN… Cán bộ đào tạo được cấp chứng chỉ có thể giúp công nhân hơn về chuyên môn, được tôn trọng và chứng minh được năng lực của mình với chủ sử dụng lao động. T.An |
Về định hướng phát triển đội ngũ làm công tác đào tạo nghề trong DN, ông Sơn cho biết sẽ chuẩn hóa các điều kiện để đảm bảo chất lượng, xây dựng tiêu chuẩn nghề, các chuẩn có liên quan trong GDNN, chương trình đào tạo có sự tham gia của DN. Bên cạnh đó tăng cường sự tham gia của hiệp hội nghề nghiệp, DN, đơn vị sử dụng lao động… “Trong thời gian tới, Bộ LĐ-TB&XH sẽ trình Chính phủ ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 48-2015/NĐ-CP ngày 15-5-2015, trong đó quy định cụ thể quyền và trách nhiệm của DN trong hoạt động GDNN. Cụ thể có các nội dung sau: Thực hiện quyền và trách nhiệm của DN, liên kết đào tạo với cơ sở GDNN, đăng ký – tổ chức đào tạo tại DN, chính sách thuế đối với DN khi tham gia hoạt động GDNN…”, ông Sơn nói.
Trong khi đó, TS. Vũ Xuân Hùng (Vụ trưởng Vụ Đào tạo chính quy, Tổng cục GDNN) nhấn mạnh: “Để DN tham gia nhiều hơn nữa trong đào tạo nghề cần phân định rõ quyền và trách nhiệm của các bên liên quan trong hoạt động GDNN, từ đó xây dựng cơ chế phối hợp hiệu quả giữa Nhà nước – DN – nhà trường. Thời gian tới Tổng cục GDNN sẽ làm rõ các chính sách đối với giáo viên và cán bộ đào tạo tại DN, tăng cường công tác dự báo thị trường lao động, thí điểm thành lập các hội đồng kỹ năng và xây dựng các mô hình hợp tác công tư PPP trong GDNN.
T.Anh
Bình luận (0)