Theo đại diện các trường ĐH, nên mạnh mẽ nâng cao chất lượng đào tạo ngành y, luật thông qua siết chuẩn đầu vào, chuẩn đầu ra, điều kiện mở ngành, kiểm định… và chỉ “thu hồi” chức năng đào tạo đối với những địa chỉ không đảm bảo chất lượng thay vì “ngắt” hết ở những trường ĐH đa ngành.

Ý kiến này được thảo luận sôi nổi trong tuần qua, sau định hướng được Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình nêu ra là sắp tới, không cho phép các trường ĐH không chuyên đào tạo một số lĩnh vực. Chẳng hạn, chỉ trường y mới được đào tạo bác sĩ và không cho phép trường không chuyên khoa luật đào tạo cử nhân luật (chỉ được dạy luật như một môn phối hợp).
Cốt yếu là kiểm soát chặt chất lượng đào tạo
Đối với đào tạo bác sĩ, nhiều ý kiến đồng thuận việc chấn chỉnh mạnh mẽ khâu đào tạo, nhất là trong mở ngành; chuẩn đầu ra, chuẩn đầu vào; kiểm định; đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất… Thực tế, hằng năm Bộ GD-ĐT có quy định điểm sàn riêng đối với khối ngành sư phạm và sức khỏe trong tuyển sinh nhằm đảm bảo chất lượng đầu vào. Tuy nhiên, vẫn còn chênh lệch khá lớn trong điểm trúng tuyển đầu vào giữa các trường cùng đào tạo khối ngành này. Đơn cử tại TP.HCM, có thể thấy qua các năm, điểm trúng tuyển khối ngành sức khỏe của Trường ĐH Y Dược TP.HCM chênh khá lớn với các trường ĐH đa ngành ngoài công lập cùng đào tạo khối ngành này.
Và đó cũng là một trong những lý do mà chất lượng đào tạo ngành sức khỏe ở một số trường ngoài công lập vẫn còn được dư luận đặt câu hỏi. Theo ý kiến các trường, siết đào tạo ngành y là cần thiết nhưng nên cân nhắc việc quy định chỉ đào tạo ở trường đơn ngành liệu có thuận tiện và thực sự phù hợp với xu hướng đào tạo đa ngành, xuyên ngành, liên ngành như hiện nay; nhất là trong điều kiện công nghệ đang chi phối mạnh mẽ tất cả các ngành nghề, lĩnh vực; trong đó có cả khối ngành sức khỏe. Các đề xuất tập trung vào việc kiểm soát chất lượng đầu ra, đầu vào, công tác kiểm định, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất… qua đó, “sàng lọc” để còn lại những trường thực sự đủ năng lực đào tạo, bất kể đơn ngành hay đa ngành.

Tương tự với ngành luật, các trường cho rằng, việc chấn chỉnh để nâng chất lượng đào tạo là cần thiết nhưng nên theo hướng kiểm soát chặt chuẩn đầu vào, chuẩn đầu ra, điều kiện mở ngành, kiểm định… và chỉ “thu hồi” chức năng đào tạo đối với những địa chỉ không đảm bảo chất lượng thay vì “ngắt” hết ở những trường ĐH không chuyên, đa ngành. TS. Đinh Thị Thanh Nga (Trưởng bộ môn Pháp luật hành chính – hình sự, Khoa Luật – Trường ĐH Sài Gòn) nhận định, Nghị quyết 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới xác định: “Nâng cao chất lượng đào tạo luật, phát triển các cơ sở đào tạo luật trọng điểm có uy tín; kiên quyết chấm dứt hoạt động của các cơ sở đào tạo luật không bảo đảm tiêu chí, tiêu chuẩn theo quy định”. Như vậy, nghị quyết chú trọng vào yêu cầu về chất lượng chứ không đồng nhất việc nâng cao chất lượng đào tạo với việc chỉ cho phép các trường chuyên về luật thực hiện đào tạo ngành này và các trường đa ngành thì không được phép đào tạo.
TS.Nga cho rằng, điểm cốt yếu là kiểm soát chặt chẽ chất lượng đào tạo, trước hết là chất lượng cơ sở đào tạo chứ không phải kiểm soát tên gọi của cơ sở đào tạo. Nghĩa là các tiêu chí, tiêu chuẩn của ngành đào tạo phải được đảm bảo chặt chẽ và ngày càng nâng cao; hoạt động kiểm định phải thực chất, kiên quyết loại bỏ những cơ sở kém chất lượng. Việc giảm cơ sở đào tạo ngành luật nếu chỉ dựa vào “tên trường” theo TS. Nga, còn có nguy cơ tạo ra độc quyền trong đào tạo mà buông lỏng hậu kiểm và có thể gây thiếu hụt nhân lực phục vụ cho sự phát triển.
TS.Nga nhìn nhận, kiến thức luật rất cần cho mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội; mọi ngành nghề, lĩnh vực và có thể kết hợp với các ngành khác như quản trị – luật, kinh tế – luật, chính trị – luật… Điều này giúp người làm việc trong những lĩnh vực đó am hiểu pháp luật, tiếp cận lẽ công bằng tốt hơn. Cử nhân luật hoàn toàn có thể làm việc ở mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực chứ không chỉ cho ngành tòa án, kiểm sát, làm luật sư hay cho các cơ quan chuyên trách về pháp luật. Thực tế, những địa chỉ này ngoài yêu cầu trình độ cử nhân, luôn có những yêu cầu nghiêm ngặt khác để hành nghề, thi tuyển gắt gao, phải có chứng chỉ nghiệp vụ để sàng lọc chất lượng.
“Do vậy, đào tạo luật thật sự cần cho sự phát triển của đất nước, chỉ nên đổi mới theo xu thế tất yếu của giáo dục là nâng cao chất lượng để xây dựng đội ngũ nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chứ không phải chỉ cho phép một số ít trường chuyên đào tạo” – TS. Nga đề xuất.
Tạo cơ chế “sàng lọc” tự nhiên
Chung quan điểm, ThS. Nguyễn Đức Hiếu (Trường ĐH Quốc tế, ĐH Quốc gia TP.HCM) nêu giải pháp để vừa nâng cao chất lượng đào tạo luật, vừa loại bỏ những cơ sở đào tạo yếu kém là nâng cao các tiêu chuẩn đào tạo, tạo cơ chế “sàng lọc” tự nhiên. Theo ThS. Hiếu, vấn đề cốt lõi không nằm ở việc trường chuyên hay không chuyên mà ở chất lượng đào tạo thực chất. Giải pháp hợp lý và bền vững là thiết lập hệ thống tiêu chuẩn đào tạo luật học nghiêm ngặt, buộc tất cả cơ sở phải đáp ứng về chất lượng hoặc tự giảm quy mô.
ThS. Hiếu đề xuất quy định điểm sàn đầu vào cho ngành luật ở mức cao, tương đương với nhiều ngành quan trọng khác. Cùng với đó, chuẩn đầu ra phải được kiểm soát chặt chẽ thông qua các đợt đánh giá riêng và độc lập. Về tiêu chuẩn các cơ sở đào tạo, mỗi khoa luật phải có tối thiểu 50% giảng viên cơ hữu với học vị từ tiến sĩ trở lên hoặc kinh nghiệm thực tiễn từ 10 năm trở lên tại các cơ quan tư pháp. Đồng thời, trong trường phải có cơ sở vật chất phù hợp như có thư viện pháp luật chuyên ngành, phòng mô phỏng phiên tòa. Khi đó, các trường không đáp ứng được tiêu chuẩn sẽ tự động bị đào thải. Còn những chương trình chất lượng cao, dù ở trường chuyên hay không chuyên vẫn được duy trì và phát triển, tạo ra môi trường đào tạo luật học đa dạng nhưng đảm bảo chất lượng.
Còn PGS.TS Bùi Anh Thủy (Trưởng khoa Luật, Trường ĐH Văn Lang) thì đặt vấn đề đánh giá bằng kết quả đào tạo. Ông Thủy nhận định, hiện cả nước có rất nhiều cơ sở tham gia đào tạo luật; bao gồm trường chuyên, trường có khoa luật và cả những nơi chỉ có bộ môn. Trong khi đó, số trường chuyên về luật chỉ tập trung ở Hà Nội, TP.HCM và Huế cùng một số mô hình kết hợp như luật – kinh tế. Nếu chỉ căn cứ vào tên gọi “trường luật” hay “khoa luật” để phân loại quyền đào tạo thì thiếu cơ sở, bởi chất lượng không nằm ở danh xưng mà ở thực tế đào tạo. Thực tế, nhiều cơ sở có khoa luật hiện nay đã đào tạo bậc thạc sĩ, tiến sĩ và có chương trình được kiểm định đạt chuẩn. “Bộ GD-ĐT đã ban hành nhiều tiêu chuẩn và chuẩn chương trình đào tạo luật, đây mới phải là căn cứ để các cơ sở đào tạo tự rà soát năng lực lẫn chất lượng. Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo cần đặt trên nền tảng khoa học, minh bạch, đảm bảo tính công bằng và cạnh tranh lành mạnh giữa các cơ sở giáo dục ĐH” – ông Thủy nói.
Việt Ngân

Bình luận (0)