Vừa qua, giải nhì cuộc thi truyện ngắn Báo Văn nghệ được trao cho tác phẩm “Trăm Ngàn” (tác giả Ngô Tú Ngân) đã gây nhiều tranh luận trái chiều, kẻ chê người khen.

Một số ý kiến cho rằng tác phẩm thiếu độc đáo và khác biệt, cách dùng từ trong truyện ngắn bất hợp lý, thậm chí bị nhận xét: ngôn từ như “lẩu thập cẩm” (!?) gây hoang mang dư luận; sự thực ngôn từ trong tác phẩm có đáng bị phán xét nặng nề như vậy không?
Tranh luận quanh tác phẩm đoạt giải
Ngày 24-7-2025, lễ trao giải cuộc thi truyện ngắn Báo Văn nghệ được tổ chức tại Hà Nội. Cuộc thi không chọn ra được giải nhất và ban tổ chức đã trao giải cao nhất là hai giải nhì cho 2 truyện ngắn, trong đó, truyện ngắn “Trăm Ngàn” của tác giả Ngô Tú Ngân đã gây nhiều tranh luận. Ngược lại một số ý kiến khen ngợi, có ý kiến cho rằng chất lượng tác phẩm chưa tương xứng với giải thưởng, phê phán truyện ngắn “Trăm Ngàn” mắc lỗi cơ bản ở ngôn từ “lẩu thập cẩm”, pha trộn Nam – Bắc dù tác phẩm lấy bối cảnh miền Tây.
Để minh họa cho nhận xét của mình, người viết nêu ra một dẫn chứng tiêu biểu: “Tác giả Ngô Tú Ngân viết “Tìm từ lúc tóc xanh, giờ tóc nó cũng bạc mà mẹ nó vẫn bặt tăm chim cá” và cho rằng “người dân miền Tây không gọi “mẹ” mà dùng từ “má”, còn tác giả truyện ngắn khi thì dùng từ “mẹ”, lúc lại viết “tía má””. Ở chiều ngược lại, bênh vực tác phẩm “Trăm Ngàn”, ý kiến khác cho rằng ngôn ngữ trong truyện không phải “lẩu thập cẩm”, mà là hình thức giao thoa đa thanh; tác phẩm “Trăm Ngàn” sử dụng ngôn ngữ theo hướng đa thoại và lai ghép, là đặc trưng của văn chương hậu hiện đại. Việc có xen lẫn giữa các biến thể vùng miền không nên được xem là lỗi, mà cần hiểu như một chọn lựa có chủ đích nhằm khắc họa đời sống di động, không định danh cố định của nhân vật và bối cảnh.
Một số khái niệm cơ bản
Trước hết, cần phân biệt từ toàn dân, phương ngữ và từ địa phương. Theo Từ điển tiếng Việt, “phương ngữ” là các “biến thể theo địa phương hoặc theo tầng lớp xã hội của một ngôn ngữ”, ví dụ “Phương ngữ Nam bộ của tiếng Việt”. Phương ngữ là một hệ thống ngôn ngữ hoàn chỉnh, bao gồm ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và cách sử dụng riêng biệt. Nó có tính khu vực, tức là được sử dụng rộng rãi trong một địa phương hoặc một số địa phương nhất định. Còn từ địa phương là một bộ phận trong phương ngữ, bao gồm những từ ngữ chỉ được sử dụng ở một/một số địa phương, nó không phải là một hệ thống ngôn ngữ hoàn chỉnh, mà chỉ là một phần của phương ngữ; như “tía, má”, “thầy, u” là từ địa phương ở một số vùng miền, tương ứng với “cha, mẹ” trong tiếng Việt toàn dân.
Phương ngữ và từ địa phương đều là các biến thể của ngôn ngữ, nhưng có sự khác biệt về phạm vi và tính chất; phương ngữ là một khái niệm rộng hơn, bao gồm cả từ địa phương, trong khi từ địa phương chỉ là một phần nhỏ của phương ngữ. Cạnh đó, cũng cần phân biệt khái niệm đại từ nhân xưng và từ xưng hô. Trong tiếng Việt, từ xưng hô và đại từ nhân xưng có mối liên hệ mật thiết với nhau, nhưng không hoàn toàn đồng nhất. Từ xưng hô là những từ ngữ dùng để gọi người khác hoặc tự xưng mình trong giao tiếp, thể hiện mối quan hệ, tuổi tác, giới tính, dùng để xác định quan hệ xã hội giữa người nói và người nghe, bao gồm cả đại từ nhân xưng và các danh từ, cụm danh từ chỉ người như bố, mẹ, thầy, cô, anh, chị, bạn, cậu, ông, bà, bác, cháu, em, sếp…; còn đại từ nhân xưng là một lớp từ loại cụ thể, thuộc nhóm đại từ (từ thay thế), dùng để chỉ người (hoặc vật được nhân xưng hóa) trong giao tiếp, giúp tránh lặp lại từ ngữ trong câu hoặc khi không cần nêu cụ thể, thường được chia thành ngôi giao tiếp thứ nhất, thứ hai và thứ ba, phạm vi sử dụng hẹp hơn từ xưng hô, chỉ bao gồm các từ như: tôi, ta, mình, chúng ta, bạn, cậu, anh, chị, hắn, nó, họ… Đại từ nhân xưng thiên về chức năng thay thế danh từ chỉ người trong câu, còn từ xưng hô thiên về chức năng giao tiếp, thể hiện quan hệ xã hội. Điểm giao thoa giữa chúng là một số đại từ nhân xưng đồng thời cũng được dùng làm từ xưng hô.
Tựu trung lại, tất cả đại từ nhân xưng đều là từ xưng hô và chỉ chiếm một phần nhỏ trong hệ thống từ xưng hô phong phú của tiếng Việt; ngược lại, không phải mọi từ xưng hô đều là đại từ nhân xưng. Về mặt ngữ học, đại từ nhân xưng thuộc phạm trù ngữ pháp, có thể dùng cả trong trường hợp phi đối thoại như tường thuật, miêu tả, còn từ xưng hô thuộc phạm trù ngữ dụng học.
Cần nhận xét thỏa đáng
Trở lại với những ý kiến trái chiều về tác phẩm đoạt giải, thực ra, trong cả hai nhóm ý kiến nhận xét về từ ngữ được sử dụng trong tác phẩm đoạt giải nói trên, đều thể hiện ít nhiều sự ngộ nhận, nhầm lẫn về các lớp từ ngữ khác biệt trong từ vựng tiếng Việt và khả năng hành chức của nó.
Như đã phân tích trên, đại từ nhân xưng và từ xưng hô, từ địa phương và từ toàn dân tuy vốn có mối liên hệ mật thiết với nhau nhưng phạm vi sử dụng không hoàn toàn giống nhau. Chỉ căn cứ vào vài từ xưng hô, phương ngữ, từ toàn dân ít ỏi sử dụng trong tác phẩm mà vội vàng nhận xét “người dân miền Tây không gọi “mẹ” mà dùng từ “má”, còn tác giả truyện ngắn khi thì dùng từ “mẹ”, lúc lại viết “tía má” là thể hiện sự ngộ nhận về khả năng hành chức các lớp từ trên. Không nhất thiết người vùng phương ngữ nào đều buộc phải dùng đại từ nhân xưng hoặc từ xưng hô địa phương trong mọi trường hợp phát ngôn, trong mọi phong cách chức năng. Chắc chắn rằng, người Việt Nam dù ở bất cứ vùng miền nào, phương ngữ sử dụng khác nhau ra sao cũng không hề thay thế các từ toàn dân theo phương ngữ của mình, ví như bài ca dao “Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ mẹ kính cha…” lại đổi thành: Công ba như núi Thái Sơn/ Nghĩa má như nước trong nguồn chảy ra/ Một lòng thờ u kính bố… Cũng chưa thấy ai sử dụng “tiếng u đẻ/má đẻ/bầm đẻ/bủ đẻ…” thay cho cụm từ “tiếng mẹ đẻ”, hoặc dùng “quê tía/quê thầy/quê bố đất tổ…” thay cho thành ngữ “quê cha đất tổ”. Cạnh đó, từ vựng tiếng Việt còn ghi nhận, nhiều từ toàn dân hiện đang được sử dụng ổn định trên cả nước – không bị ảnh hưởng bởi phạm vi vùng miền, từ địa phương, như cư dân phương ngữ Bắc bộ vẫn gọi “cá heo” chứ không đổi lại thành “cá lợn”; ngược lại, dân cư Nam bộ đều nhất loạt gọi là “bánh da lợn” chứ chưa thấy ai sửa lại thành “bánh da heo”.
Cho rằng ngôn từ trong truyện ngắn “Trăm Ngàn” như “lẩu thập cẩm”, “pha trộn Nam – Bắc” là nhận xét phiến diện, thiếu căn cứ, không thỏa đáng, thể hiện sự mơ hồ, ngộ nhận của tác giả ý kiến về các lớp từ tiếng Việt và phạm vi sử dụng phong phú của chúng trong phương thức giao tiếp bằng ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết, trong các lĩnh vực phong cách chức năng, cụ thể là trong phong cách khẩu ngữ – sinh hoạt và phong cách văn chương. Người có học hàm, học vị, đang giữ cương vị trong xã hội lại càng cần phải đảm bảo sự thận trọng, nghiêm cẩn và chuẩn xác khi đánh giá, phán xét tác phẩm – nhất là đối với một truyện ngắn đoạt giải thưởng của Báo Văn nghệ – đã được sàng lọc qua nhiều vòng chấm giải…
Đỗ Thành Dương

Bình luận (0)