Trường Đại học Washington, Seattle, Hoa Kỳ.
|
Bài viết ngày 3/10 vừa qua của Neal Koblitz, (GS Toán học ĐH Washington , Seattle, Hoa Kỳ) là một trong số những “phản biện gay gắt” nhất (như chữ dùng của đài RFA khi phỏng vấn ông hôm 8/11/2009).
GS Neal Koblitz
|
Đối với những vấn đề quốc tế quan trọng, quan điểm của người Mỹ thường bị chia rẽ một cách sâu sắc. Vào những năm sáu mươi, hàng triệu người Mỹ đã nhiệt tình ủng hộ cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Trong số đó không chỉ là bao gồm những người không có học thức mà đáng tiếc là còn có cả một số giáo sư của Harvard và các trường đại học khác, họ đã đến Washington để nắm giữ các chức vụ quan trọng trong nội các của Kennedy và Johnson. Cũng trong thời kỳ này, nhiều người Mỹ khác đã phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam và đã tổ chức các cuộc biểu tình rộng lớn. Người Mỹ không nói chung một giọng.
Những khó khăn của Việt Nam trong giáo dục bậc cao là rất phức tạp và cũng khá giống với những vấn đề thường thấy ở các nước khác, đặc biệt là ở Thế giới thứ ba. Bài viết này không nhằm phân tích toàn diện vấn đề đó. Mục đích của tôi là xem xét câu hỏi này trong bối cảnh lịch sử, và cảnh báo các nhà toán học, các nhà khoa học và các quan chức của Việt Nam cần phải hết sức thận trọng trước những phân tích và kiến nghị của các đại diện của những tổ chức Hoa Kỳ kiểu như là Viện Ash.
Có thể giải thích phần nào cho địa vị cao quí của những học giả trong truyền thống của người Việt. Trường Đại học Quốc Tử Giám cổ kính, được thành lập vào năm 1076, luôn là một địa điểm hấp dẫn khách du lịch tới Hà Nội… Tấm bia đá dựng năm 1463 có khắc tên của Lương Thế Vinh, người mà bên cạnh sự nghiệp văn chương của mình còn được coi là một trong những nhà hình học đầu tiên của Việt Nam.
Tuy nhiên trong thời kỳ thực dân, người Pháp đã thất bại trong việc phát triển giáo dục bậc cao. Báo cáo Vallely đã có một phân tích chính xác về vấn đề này: Những vấn đề mà Việt Nam đang phải đối đầu trong hệ thống giáo dục đại học ngày nay một phần là do hậu quả từ một lịch sử cận đại bi thảm của đất nước này.
Chế độ thực dân Pháp cai trị Việt Nam trong nửa sau thế kỷ 19 cho đến năm 1945 đã đầu tư rất ít, ngay cả khi so sánh với các thế lực thực dân khác, vào hệ thống giáo dục đại học. Hậu quả là Việt Nam đã bỏ lỡ mất cơ hội khi làn sóng cách tân thể chế giáo dục đại học quét qua phần lớn lục địa châu Á trong những thập niên đầu của thế kỷ 20. Đây là thời gian rất nhiều học viện hàng đầu được thành lập tại vùng này.
Hậu quả là sau khi thu hồi độc lập, Việt Nam chỉ có một thể chế giáo dục đại học rất yếu kém để làm nền móng xây dựng (đây là một điểm tương phản rõ rệt so với Trung Quốc, nơi mà, cho đến ngày nay, phần lớn các trường đại học hàng đầu đã được thành lập rất lâu trước cách mạng).
Mặc dù Báo cáo Vallely đã có lý khi phê bình nặng nề người Pháp, nhưng mối quan hệ giữa Pháp và Việt Nam cũng có những khía cạnh tích cực. Một số những trí thức hàng đầu của Việt Nam (như các nhà toán học Lê Văn Thiêm và Nguyễn Đình Ngọc) đã tu nghiệp ở Pháp và khi trở về đã có những đóng góp to lớn cho Việt Nam. Sau đó, đặc biệt trong thời gian chiến tranh với Mỹ, một số nhà toán học và khoa học nổi tiếng nhất của Pháp (như A. Grothendieck, L. Schwartz, và P. Cartier) đã đến thăm và giảng bài tại Việt Nam và đã cố gắng giúp đỡ các đồng nghiệp của họ. Người sáng lập ra Uỷ ban Hoa Kỳ về Hợp tác Khoa học với Việt Nam – Ed Cooperman (ông đã bị ám sát ở California đúng vào tháng này 25 năm trước), đã từng làm việc 1 năm ở Pháp trong những năm 1970 đã có những ấn tượng sâu sắc đối với các hoạt động của các nhà khoa học Pháp trong việc ủng hộ Việt Nam, và từ đó thôi thúc ông xây dựng một nhóm tương tự như vậy ở Hoa Kỳ.
Tại thời điểm cam go nhất của cuộc chiến tranh với Pháp, các lớp học nâng cao vẫn được tổ chức, tại Liên khu Bốn do Nguyễn Thúc Hào phụ trách, tại khu vực phía tây Hà Nội do Nguyễn Xiển đảm nhiệm và ở gần biên giới với Trung Quốc do Lê Văn Thiêm phụ trách. Cũng trong cùng thời kỳ này, một cuốn sách giáo khoa về hình học do Hoàng Tụy biên soạn đã được xuất bản tại nhà xuất bản của Việt Minh. Tôi tin rằng đây là cuốn sách toán duy nhất trên thế giới do một phong trào kháng chiến phát hành. Các sự kiện lịch sử này đã được những nhiều nhà toán học biết đến thông qua cuộc phỏng vấn của tôi với Hoàng Tuỵ.[5]
Có thể các độc giả Việt Nam cảm thấy ngạc nhiên vì trong Báo cáo Vallely, khi nói về "lịch sử cận đại đầy bi thảm" của Việt Nam, chỉ thấy người Pháp phải giơ đầu chịu báng về chính sách ngược đãi với Việt Nam. Các tác giả dường như đã quên đi toàn bộ giai đoạn từ năm 1954 đến 1975, khi nước Mỹ ban đầu ủng hộ cho các chế độ chuyên chế thối nát ở miền Nam, và sau đó từ năm 1964 đến năm 1975, đã chiếm giữ các tỉnh phía Nam và tiến hành một cuộc chiến man rợ chống lại Việt Nam. Không một điều gì người Pháp đã làm có thể so sánh được với sự tàn phá trong giai đoạn này – khi mà tổng số lượng bom đổ xuống miền bắc và miền nam Việt Nam nhiều hơn hẳn bất kỳ một cuộc chiến tranh khác nào trong lịch sử thế giới, kể cả Chiến tranh thế giới II. Tham mưu trưởng không quân, tướng Curtis LeMay đã miêu tả chiến lược của Mỹ ở Việt Nam như sau: "Chúng ta sẽ ném bom và đưa họ trở về thời kỳ đồ đá."
Tuy nhiên, chỉ một chút tìm hiểu là ta sẽ thấy rõ ràng vì sao phần về "di sản lịch sử" trong báo cáo Vallely lại hoàn toàn không đề cập chút nào tới vai trò của người Mỹ. Tôi được biết qua trang web của Viện Ash rằng trong suốt thời gian này chính ông Vallely đã ở Việt Nam với tư cách như là một thành viên của thuỷ quân lục chiến Hoa Kỳ. Đây là một trong những tổ chức đã gây ra các tội ác chiến tranh chống lại người Việt Nam.
Hơn nữa, văn phòng của ông Vallely lại có liên kết với Trường Đại học Harvard, và điều này cũng có thể giải thích cho sự thiếu vắng những tư liệu liên quan đến vai trò của nước Mỹ trong "giai đoạn lịch sử hiện đại đầy bi kịch" của Việt Nam. Mặc dù Harvard đã có nhiều nhà toán học và khoa học lỗi lạc trong danh sách các giáo sư của mình, nhưng không phải mọi điều trong quá khứ của Harvard đều đáng khen ngợi. Trường đại học này đóng một vai trò to lớn trong chiến tranh của Mỹ. Một vài giáo sư về chính trị, như McGeorge Bundy và Samuel Huntington, là những nhà hoạch định chính sách quan trọng. Bundy và Huntington đã tham gia xây dựng và cổ vũ nhiệt thành cho chương trình "Ấp chiến lược" nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam. Chương trình cưỡng bức di dời phần lớn nông dân này do quân đội Mỹ và chế độ bù nhìn thực hiện đã bị lên án là vi phạm luật pháp quốc tế.[7] Chất Napalm – do Công ty Hoá học Dow sản xuất và được quân đội Mỹ sử dụng để chống lại dân thường ở Việt Nam – được thử nghiệm lần đầu tiên trên sân vận động của Harvard. Vì vậy người ta có thể dễ dàng hiểu được vì sao những người có liên quan tới Trường Harvard lại thích giữ im lặng về cuộc chiến tranh của Mỹ và đổ mọi vấn đề của Việt Nam cho người Pháp.
Có cả những ảnh hưởng về mặt văn hóa khác, tuy không hiện rõ bằng. Một ví dụ là nhiều năm trước đây, ông Hoàng Tuỵ đã nói với tôi một nhận xét rằng trong một cuộc chiến sinh tồn, truyền thống mỹ thuật và làng nghề thủ công cũng dần dần bị phai nhạt. Và nếu không có sự nỗ lực phi thường của các nhà trí thức và các nhà lãnh đạo Việt Nam – những người trong suốt thời gian Hà Nội bị ném bom vẫn tổ chức giảng dạy đại học và nghiên cứu khoa học ở trong các khu rừng cách xa Thủ đô – thì đời sống khoa học cũng sẽ bị xoá sổ trong thời gian chiến tranh với Mỹ.
Báo cáo Vallely gợi ý rằng các nhà khoa học và các quan chức của Việt Nam, những người đã được đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa, có năng lực kém hơn so với những người được đào tạo ở phương Tây, và cho rằng chính họ đã ngăn cản sự tiến bộ. Khi đưa ra những cáo buộc này, các tác giả dường như đang muốn tạo nên một cuộc xung đột giữa các nhóm khác nhau ở Việt Nam. Dù cho có các ý kiến khác nhau về khả năng của người Việt được đào tạo ở các nước xã hội chủ nghĩa hay không xã hội chủ nghĩa – còn theo quan điểm của tôi thì ở cả hai nhóm này đều có những người có năng lực cao – thì việc tạo nên bất đồng giữa một nhóm người Việt Nam này với một nhóm khác cũng không đem lại lợi ích gì.
Nhìn vào những nhận xét mang tính miệt thị của báo cáo Vallely về những người Việt Nam được đào tạo bậc cao tại các nước xã hội chủ nghĩa, một câu hỏi tự nhiên được đặt ra là: Các tác giả của bản báo cáo này có những phẩm chất, trình độ nào để có thể cho phép họ đưa ra những phán xét tiêu cực như vậy?
Trợ lý của Vallely, ông Ben Wilkinson, còn có ít bằng cấp hơn nữa. Theo trang web của Viện Ash thì trình độ của ông ta là đã tham gia các khoá học về lịch sử và ngôn ngữ Việt Nam hồi ông ta là sinh viên, và ông ta đã "học luật tại Trường Luật Harvard" (cách viết này có nghĩa là ông ta đã không hoàn thành khoá học và có bằng cấp gì về luật).
Nếu một người nào đó có một tấm bằng Thạc sĩ Hành chính công cộng, hoặc đã từng theo các khoá học đại học về lịch sử và ngôn ngữ Việt Nam thì liệu anh ta có đủ trình độ để chỉ bảo cho chính phủ Việt Nam nên làm gì hay không? Liệu anh ta có đủ tư cách để đưa ra các phán xét tiêu cực về các nhà khoa học và các quan chức đã từng theo học ở các nước xã hội chủ nghĩa hay không?
Liệu một người với trình độ như ông Vallely hoặc ông Wilkinson có thể được Chính phủ Hoa Kỳ mời làm chuyên gia tư vấn về cải cách giáo dục bậc cao hay không? Tất nhiên là không. Người ta sẽ coi họ là hoàn toàn không đủ trình độ, và sẽ không có ai muốn nghe ý kiến của họ về vấn đề này. Thế mà Viện Ash của Trường Havard và chương trình học giả Fulbright của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ lại cử họ đến Việt Nam như là các "chuyên gia" về đào tạo bậc cao. Đây là một ví dụ của cái gọi là chủ nghĩa thực dân kiểu mới.
Giọng điệu của bản báo cáo Vallely mang tính chất trịnh thượng, ra vẻ quan trọng và dạy bảo. Các tác giả đã tự tin thái quá một cách sai lầm vào kiến thức cao cả của mình và tỏ ra chế nhạo, coi thường các cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học cũng như các nhà lãnh đạo của Việt Nam. Dù cho Mc George Bundy và Samuel Huntington đã chết thì thói kiêu căng kiểu thực dân mới mà họ đã từng thể hiện vẫn tồn tại và hiện hữu ở các tổ chức có liên quan tới Harvard như cái Viện Ash này.
Báo cáo Vallely cho rằng ở Việt Nam "25% chương trình giảng dạy đại học được dành cho các môn học mang nặng tính tuyên truyền chính trị". Tuy nhiên, khi nhìn vào các chương trình về chính sách tại Viện Ash ở Harvard của ông Vallely, người ta dễ có cảm giác rằng việc truyền bá chính trị chiếm tới 100%. (Có lẽ 100% thì hơi quá, nhưng chắc chắn rằng tỷ lệ các môn tuyên truyền về chính trị và tư tưởng vượt xa con số 25%). Sự khác biệt giữa hai dạng tuyên truyền chính trị tại các trường đại học ở Việt Nam và tại Viện Ash là ở chỗ một nơi tuyên truyền về chủ nghĩa xã hội còn nơi kia là chống chủ nghĩa xã hội. Ngay cả khi nhận định trong báo cáo Vallely rằng sinh viên đại học ở Việt Nam đã lãng phí 25% thời gian của mình là đúng, thì nó vẫn còn tốt hơn là lãng phí hầu như 100% thời gian.
Vào năm 1985 Chính phủ Việt Nam đã đưa ra một loạt chính sách cải tổ nền kinh tế và điều đó dẫn tới việc nền kinh tế đã phát triển nhanh chóng trong nhiều năm, chất lượng cuộc sống của mọi người được nâng cao, và khu vực tư nhân phát triển rất mạnh. Trong cuốn sách Random Curves[10] của mình, tôi đã cố gắng đưa ra một cách nhìn cân bằng về ảnh hưởng của đổi mới.
Hơn nữa, đã có nhiều trường hợp những ông chủ là người Mỹ, người Hàn Quốc hay Nhật Bản quấy rối tình dục công nhân nữ Việt Nam, những người phụ nữ này hoàn toàn bất lực và người ta cũng chẳng có hành động gì để xử phạt những kẻ quấy rối tình dục đó.
Cũng giống như ở các nước khác, chính sách mở cửa có mặt trái của nó. Những người đã từng nghiên cứu về các mối quan hệ phức tạp giữa các nước giầu có và các nước Thế giới thứ ba thường hay nói về vấn đề "dumping"[11]. Điều này có nghĩa là nhiều công ty đa quốc gia thường xuyên bán các sản phẩm chất lượng thấp hoặc có lỗi cho các nước Thế giới thứ ba – ví dụ, các loại thuốc quá hạn sử dụng hoặc không được kiểm nghiệm và vì vậy không thể bán được ở Mỹ. Nạn dumping cũng được mở rộng tới cả lĩnh vực văn hóa. Ví dụ như, các phim Mỹ thường được chiếu ở Việt Nam (và làm cản trở nền công nghiệp điện ảnh Việt Nam) thường là những bộ phim kém chất lượng nhất của Hollywood – những bộ phim Mỹ có chất lượng tốt hiếm khi được nhập về.
Tương tự như vậy, hầu hết các trường của Mỹ đặt chi nhánh ở Việt Nam đều là những trường có chất lượng thấp. Ví dụ, một bài báo[12] mà tôi đọc được trên một tờ báo của Mỹ nói tới việc Trường Cao đẳng Cộng đồng Houston[13] có một chi nhánh rất phát đạt ở Thành phố Hồ Chí Minh. Không một người nào ở Mỹ coi Trường Cao đẳng Cộng đồng Houston là một trường có địa vị học thuật nghiêm túc. Vì vậy, điều này cũng có thể được xem là một hình thức dumping. Và cũng có thể nói rằng việc gửi những người không có khả năng sang Việt Nam làm "chuyên gia" về giáo dục bậc cao cũng là một dạng dumping.
Một mặt trái khác của chính sách mở cửa là sự gia tăng của chủ nghĩa thực dụng trong thế hệ trẻ – một hiện tượng cũng thấy ở Trung Quốc, Ấn Độ và một vài nơi khác. Tôi đã viết trong cuốn Random Curves, những người làm khoa học ở Việt Nam thường than phiền rằng ngày càng ít các bạn trẻ muốn theo đuổi các lĩnh vực khoa học cơ bản. Đã có hiện tượng "bạc tóc" ở các cơ quan khoa học … Người Việt Nam có truyền thống coi trọng việc học hành… Nhưng với sự tác động mạnh mẽ của các hệ thống giá trị được du nhập từ các nước tư bản, những công việc lao động trí óc không cạnh tranh nổi với các ngành nghề khác có lợi hơn.
Mặc dù việc đấu tranh chống lại những ảnh hưởng tiêu cực tới giới trẻ là khó khăn, nhưng cũng không phải là hoàn toàn bó tay. Đã có nhiều nỗ lực thành công ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Ấn Độ, một số nhà toán học hàng đầu đã tham gia giảng dạy trong các chương trình mùa hè về toán học được chính phủ tài trợ dành cho các học sinh cả nam và nữ đã đạt được kết quả tốt trong các kỳ thi Olimpic. Mục đích của các chương trình này không phải chỉ để dạy toán, mà còn nhằm chuyển tải vẻ đẹp và sự hấp dẫn của việc nghiên cứu toán học. Ở Mỹ, Hiệp hội các nhà Toán học Nữ tổ chức "ngày Kovalevskaia" tại các trường cấp hai ở nhiều nơi trên nước Mỹ. Tại những buổi gặp gỡ này, các nhà nghiên cứu nữ nói chuyện với các em gái về rất nhiều công việc có sử dụng đến toán học. Một sáng kiến khác tỏ ra rất thành công là một chương trình được chính phủ tài trợ mang tên "Kinh nghiệm nghiên cứu ở bậc đại học"[14] (REU), được tổ chức vào mùa hè tại nhiều trường đại học, trong đó có trường của tôi. Các giáo sư phụ trách REU cố gắng đem lại cho các sinh viên những cảm giác ban đầu của công việc nghiên cứu toán học.
Trong thời gian từ 20 hoặc 25 năm trở lại đây, mức độ chuẩn bị của sinh viên khi nhập trường dần dần đi xuống. Lần đầu tiên tôi nhận ra điều này là khi một sinh viên khi học môn học giải tích dành cho năm thứ nhất của tôi đã than phiền với bộ phận hành chính về tôi. Cô ta nói rằng tôi dạy quá khó, và để chứng minh, cô ta chỉ ra rằng để trả lời cho một câu hỏi trong một bài kiểm tra của tôi, các sinh viên phải nhớ được công thức tính diện tích hình tròn.
Một vài năm trước, một đồng nghiệp của tôi, Giáo sư chuyên ngành khí tượng học Cliff Mass đã hết sức thất vọng khi thấy sinh viên của mình không thể hiểu được những kiến thức toán học mà ông ta sử dụng trong môn học nhập môn của mình. Để tìm hiểu những lỗ hổng trong kiến thức chuẩn bị về toán của họ, ông đã cho họ một bài "kiểm tra chất lượng" về toán cơ bản. Sau đây là ba câu hỏi điển hình trong bài kiểm tra này cùng với tỷ lệ sinh viên trả lời sai:
(2) Diện tích của hình tròn bán kính r là bao nhiêu? (31% bỏ câu này);
(3) Cho y= x/(1-x), hãy tìm x theo biến y (86% bỏ câu này).
Một lý do của chi phí cao là các trường đại học đó cung cấp cho sinh viên nhiều dịch vụ hơn trước đây. Ví dụ, so với các sinh viên ở các thế hệ trước, sinh viên thời nay dường như cần sự giúp đỡ về sức khoẻ và tâm lý nhiều hơn. Nhiều người trong số họ lam dụng các loại thuốc gây nghiện, các hoá chất chống dị ứng, thuốc tránh thai, và đặc biệt là các dược phẩm điều trị tâm lý như các loại thuốc giảm đau và thuốc giảm cường độ hoạt động[17] – và những cuộc rượu chè say sưa (một dạng của chứng nghiện rượu) cũng là một vấn đề lớn.
Một lý do khác nữa là sự nở rộ như bệnh ung thư của hệ thống quan liêu, điều mà tôi cũng đã đề cập trong bài bình luận của tôi về bản báo cáo của Viện Hàn lâm quốc gia Hoa Kỳ. Đội ngũ cán bộ hành chính trong các trường đại học thường đông đảo như một khoa, và có nhiều toà nhà chỉ dành cho các phòng hành chính. Các cán bộ hành chính này mất quá nhiều thời gian cho các cuộc họp vô bổ và các hội nghị đắt đỏ không cần thiết, và họ xuất bản ra một khối lượng khổng lồ những ấn phẩm không có giá trị mà hầu như chẳng ai thèm đọc.
Do những yếu tố tổng hợp liên quan đến vấn đề cá nhân, áp lực về tài chính, và sự chuẩn bị nghèo nàn về toán học và các lĩnh vực khác, hầu như một nửa số sinh viên vào các trường có chương trình đào tạo là 4 năm đã không thể hoàn thành khoá học của mình trong vòng 4 năm, 5 năm và thậm chí là 6 năm[18]. Điều này khiến cho nhiều nhà bình luận của Mỹ nói rằng giáo dục bậc cao ở Mỹ là rất không hiệu quả và quá đắt đỏ.
8. Thị trường việc làm
Mục đính của bằng sáng chế là bảo vệ sự sáng tạo trong phu vực tư nhân, nói rõ hơn, là để đảm bảo cho các công ty thu được lợi nhuận từ những cải tiến mà các nhà nghiên cứu của họ đề xuất. Thông thường thì nghiên cứu trong khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng tại các trường đại học và tại các viện nghiên cứu của chính phủ không dẫn đến các bằng sáng chế, dù tính sáng tạo của nó ở mức độ nào chăng nữa [23]. Do đó, việc thiếu vắng những bằng sáng chế ở Việt Nam là một hệ quả, không phải của một sự thất bại trong hệ thống đại học, mà là chất lượng thấp của khu vực tư nhân.
Intel xác nhận rằng đây là kết quả tồi tệ nhất mà họ đã gặp phải tại tất cả các quốc gia mà họ đã đầu tư. Các nhà đầu tư Việt Nam và quốc tế thường dẫn việc thiếu hụt công nhân và lực lượng quản lý có trình độ là rào cản lớn đối với sự mở rộng của họ.
9. Học tập ở nước ngoài
koblitz@math.washington.edu
[2] http://home.vef.gov/download/Report_on_Undergrad_Educ_V.pdf
[3] http://www.viet-studies.info/Neal_Koblitz_article-vietnamese.pdf
[4] A mathematical visit to Hanoi, The Mathematical Intelligencer, 2 (1979), no. 1, pp. 38-42
[5] Recollections of mathematics in a country under siege, The Mathematical Intelligencer, 12 (1990), no.3, pp 16-34.
http://ashinstitute.havard.edu/asia/staff
[7] Điều này được xem như một tội ác chống lại loài người theo Điều 7(d) của Bộ luật của Toà án Tội ác Quốc tế
Master of Public Administration (ND).
[9] "fellows" (ND)
[10] N. Koblitz, Random Curves: Journeys of a Mathematician, Springer-Verlag 2007. Chương 9 và 10 được dành cho Việt Nam.
[11] Bán phá giá, hàng ế (ND)
[12] M.A. Overland, American college raise the flag in Vietnam, The Chronicle of Higher Education, 15/05/2009, pp. A1, 22-24
[13] Houston Community College (ND)
[14] Research Experiences for Undergraduates (ND).
[16] Khái niệm này được hiểu như là hiện nay việc thực hành ở các trường phổ thông và đại học ở Mỹ trong các khoá học trở nên ngày càng dễ hơn, thông thường là bằng cách cho qua các ví dụ khó và có ít bài kiểm tra hơn.(dumbing down).
[18] Theo tờ The Chronicle of Higher Education (24/08/12009), trong số các sinh viên hệ 4 năm nhập học năm 2001, chỉ có 56.1% tốt nghiệp vào năm 2007.
[19] "brain drain" (ND).
[20] post-secondary
[21] Mideast
[22] internship
[29] Because you might get it. (ND)
[30] Một hệ thống điểm các bài báo thuộc lĩnh vực toán học của hội toán học Mỹ (ND)
Bình luận (0)