Từng là nỗi lo gắn liền với tuổi già, đột quỵ nay đã trở thành mối đe dọa hiện hữu với cả người trẻ, thậm chí là học sinh – sinh viên. Những ca bệnh xuất hiện ngày càng nhiều ở độ tuổi dưới 40 đang cho thấy xu hướng trẻ hóa đáng lo ngại của bệnh lý này.

Trong khi đó, sự thiếu hụt mạng lưới cấp cứu chuyên sâu, nhận thức hạn chế và lối sống không lành mạnh đang góp phần đẩy nhiều người vào nguy kịch.
Những con số biết nói
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), mỗi năm thế giới ghi nhận khoảng 15 triệu ca đột quỵ, trong đó gần 6 triệu người tử vong và khoảng 5 triệu người rơi vào tình trạng tàn phế. Đột quỵ hiện là nguyên nhân gây tử vong đứng thứ hai trong các bệnh không lây nhiễm và đứng thứ ba nếu tính cả tử vong và tàn tật. Trung bình, cứ mỗi 3 giây có một ca đột quỵ mới, và cứ 4 người thì có 1 người từng bị đột quỵ.
Tại Việt Nam, ước tính có khoảng 200.000 ca đột quỵ mới mỗi năm – tương đương hơn 500 ca/ngày. Tại TP.HCM, con số này lên tới khoảng 300 ca, chiếm tới 10% tổng số giường bệnh. So với các quốc gia có trình độ kinh tế tương đương, Việt Nam thuộc nhóm có tỷ lệ tử vong do đột quỵ cao nhất, tạo nên gánh nặng lớn về kinh tế và xã hội.
Đáng chú ý, xu hướng đột quỵ ở người trẻ đang gia tăng nhanh chóng. Một báo cáo y tế gần đây ghi nhận, trong số các ca đột quỵ nhập viện tại TP.HCM, có gần 10% bệnh nhân dưới 45 tuổi. Điều này phản ánh thực trạng người trẻ chưa ý thức đầy đủ về bệnh lý này, trong khi các yếu tố nguy cơ lại đang hiện diện ngày càng phổ biến.
PGS.TS.BS Nguyễn Huy Thắng – Phó Chủ tịch Hội Đột quỵ Việt Nam, Chủ tịch Hội Đột quỵ TP.HCM – chia sẻ một trường hợp khiến giới chuyên môn không khỏi xót xa: Một bệnh nhi 14 tuổi, học sinh một trường THCS vốn hoàn toàn khỏe mạnh, đột ngột yếu liệt nửa người trái. Gia đình lập tức đưa em đến Trung tâm Y tế huyện gần nhà, cách TP.HCM khoảng 20km.
Tại đây, bác sĩ nghi ngờ đột quỵ và chuyển lên bệnh viện tỉnh cách đó 5km. Sau khi chụp CT và xác định đúng bệnh, bệnh viện tỉnh mới tiếp tục chuyển em đến Bệnh viện Nhân dân 115 ở TP.HCM – cách thêm 27km nữa. Khi đến nơi, em đã chết não, không thể can thiệp điều trị.
“Nếu bệnh nhi được chuyển thẳng đến một trung tâm điều trị chuyên sâu ngay từ đầu, có thể kết quả đã khác. Tại sao chúng ta không đưa người bệnh đến nơi có thể xử lý tốt nhất, sớm nhất?”, BS Thắng đặt vấn đề. Ông cho biết, 80% bệnh nhân đột quỵ tại Việt Nam khi tới được bệnh viện chuyên khoa thì đã quá “giờ vàng” – khoảng 4, 5 giờ sau khi xuất hiện triệu chứng.

Trái ngược với ca bệnh trên là trường hợp của em N.M.A. (học lớp 12, ngụ tại Tây Ninh). Một lần đi học về, em A. bất ngờ cảm thấy choáng váng, mệt mỏi và yếu một bên cơ thể. Nhận thấy dấu hiệu không ổn, gia đình đã lập tức đưa em đến cấp cứu tại Bệnh viện Nhân dân 115.
Nhờ được cấp cứu trong “giờ vàng”, em A. được điều trị kịp thời và không để lại di chứng nghiêm trọng. Sau một tuần điều trị, em A. xuất viện với sức khỏe ổn định. “Trường hợp này cho thấy, việc nhận biết sớm triệu chứng và hành động nhanh chóng đóng vai trò then chốt để cứu sống bệnh nhân và bảo toàn chức năng vận động, nhận thức”, BS Thắng nhận định.
Nhận diện “giờ vàng” và các dấu hiệu sớm
Theo BS.CKII Kiều Mạnh Hà – Chủ nhiệm Khoa Thần kinh, Bệnh viện Quân y 7A (TP.HCM), có đến 90% bệnh nhân đột quỵ mang theo các yếu tố nguy cơ có thể dự phòng. Đó là tăng huyết áp, tiểu đường, béo phì, rối loạn mỡ máu, lối sống thiếu vận động, hút thuốc lá, lạm dụng rượu bia, căng thẳng kéo dài…
Đặc biệt, trong nhóm người trẻ, đột quỵ có thể đến từ dị dạng mạch máu não như phình mạch, tắc nghẽn mạch, hoặc từ những bệnh lý mãn tính không được kiểm soát. “Đáng tiếc là nhiều người trẻ vẫn nghĩ rằng đột quỵ chỉ xảy ra với người lớn tuổi, nên khi có triệu chứng như chóng mặt, tê bì, nói khó, lại chủ quan bỏ qua”, BS Hà nói.
Cũng theo ông, bệnh không phân biệt tuổi tác, giới tính hay nghề nghiệp. Trong nhóm người trên 75 tuổi, nguy cơ tử vong sau đột quỵ cao gấp 3 lần, nhưng ở người trẻ, hậu quả để lại thường kéo dài cả đời – từ tàn tật, mất chức năng vận động cho đến trầm cảm và mất khả năng lao động.
“Giờ vàng” trong điều trị đột quỵ được hiểu là khoảng 3 đến 4, 5 giờ đầu kể từ khi triệu chứng xuất hiện. Đây là khung thời gian lý tưởng để can thiệp y tế, tái thông mạch máu bị tắc (trong trường hợp nhồi máu não), từ đó giảm thiểu tổn thương não.
Những dấu hiệu cảnh báo sớm gồm: yếu liệt nửa người, méo miệng, nói khó hoặc nói ngọng, mắt nhìn mờ, đau đầu dữ dội, choáng váng, mất thăng bằng. Khi phát hiện một người có các triệu chứng trên, cần nhanh chóng đưa đến cơ sở y tế có năng lực điều trị đột quỵ – tuyệt đối không áp dụng các phương pháp dân gian như cạo gió, ấn huyệt, chích máu.
ThS.BS Trần Thiện Trường – Phó Giám đốc Bệnh viện Vũng Tàu – nhấn mạnh: “Khi bệnh nhân có dấu hiệu nghi ngờ đột quỵ, người thân không nên cho uống thuốc hạ huyết áp tại nhà hay bất kỳ loại chất lỏng nào, kể cả nước, vì có thể gây sặc. Không nên trói tay chân, không bỏ vật vào miệng bệnh nhân, càng không nên dùng các biện pháp thiếu cơ sở khoa học”.
Theo các chuyên gia, thay vì chỉ trông đợi vào thuốc hay các can thiệp y tế, thì kiểm soát yếu tố nguy cơ và duy trì lối sống lành mạnh mới là cách phòng ngừa đột quỵ hiệu quả nhất.
Ngoài ra, BS Trường cũng cho biết, việc xây dựng một mạng lưới cấp cứu đột quỵ rõ ràng, có quy trình chỉ dẫn chuyển tuyến – đi đâu, về đâu – sẽ giúp bệnh nhân được tiếp cận điều trị đúng lúc, đúng nơi. “Chúng ta cần tuyên truyền mạnh mẽ hơn để người dân có thể nhận diện triệu chứng và biết cách xử trí ban đầu đúng đắn, từ đó giảm thiểu hậu quả đột quỵ để lại”, ông nói.
Thủy Phạm
Bình luận (0)