Nói đến Nguyễn Du, trước hết chúng ta nói đến những sáng tác ghi lại suy tư, cảm xúc cá nhân của ông, đó là thơ chữ Hán.
Trong ba tập thơ chữ Hán để lại: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, tập thơ nào cũng hay, cũng mang dấu ấn cá nhân rất rõ, nhưng trong đó phong phú nhất, sâu sắc nhất, để lại nhiều dư vang trong lòng người đọc nhất là Bắc hành tạp lục.
Một tiết học môn ngữ văn của học sinh lớp 12. Ảnh: Anh Khôi |
1. Trong 14 tháng đi sứ Trung Hoa, về không gian Nguyễn Du đã đi ngược lên phía Bắc đến kinh đô Bắc Kinh (Trung Quốc), thì về thời gian, Nguyễn Du đi ngược lên lịch sử hơn 4.000 năm của đất nước này để điểm duyệt lại lịch sử và văn hóa của đất nước này. Đồng thời Nguyễn Du lần đầu tiên có những trải nghiệm cá nhân trực tiếp về đất nước vẫn được ngợi ca như hình mẫu lý tưởng của đất nước mình. Ông không bị quy mô rộng rãi về địa lý, kích thước lớn lao của các công trình xây dựng, tầm vóc vĩ đại của nền văn hóa Trung Hoa che mất tầm nhìn của mình. Từ “những điều trông thấy” ông đã có những suy nghĩ sâu sắc, mới mẻ và rất riêng về đất nước láng giềng này. Ông nhìn thấy sự phân đôi trong lịch sử và xã hội Trung Hoa: Có đất nước Trung Hoa của những kẻ thống trị sâu hiểm, trí trá, hám lợi, hám lập đại công, nhưng cũng có đất nước Trung Hoa của những người lương thiện, những trí thức tài năng bị phỉ báng, bị đọa đày; có Trung Hoa của những kẻ giàu có, thừa mứa, nhưng cũng có Trung Hoa của những người tha phương cầu thực, rách rưới, gầy gò, chết đói.
Ông tỏ ra thất vọng về con đường Trung Hoa – con đường không bằng phẳng, không khoáng đạt như ông từng nghe ngợi ca.
Giữa sự phân đôi của lịch sử và xã hội Trung Hoa, ông lựa chọn chỗ đứng cho người nghệ sĩ như mình. Ông đứng về phía những Tỷ Can, Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Văn Thiên Tường; những ông già hát rong ở thành Thái Bình, những người chết đói bên vệ đường trong cuộc chạy loạn, bốn mẹ con ăn xin mà ông thấy dọc đường, người đẩy xe trên đường nắng rát ở Hồ Nam… Vượt lên trên những định kiến hẹp hòi phân chia biên giới quốc gia, ông tìm thấy mối đồng cảm giữa mình với những người Trung Hoa khốn khổ kia ở tính người, ở kiếp người vất vả, khổ đau.
2. Bắc hành tạp lục có thể được coi như tác phẩm vĩ đại nhất trong kho tàng thơ ca chữ Hán hàng ngàn năm của dân tộc, nó vĩ đại không phải vì được sáng tác ra bởi tác giả Truyện Kiều mà từ giá trị tự thân của nó.
250 năm trôi qua, Nguyễn Du đã để lại sự nghiệp tuy không thật đồ sộ về mặt số lượng, chỉ có 3 tập thơ chữ Hán, một bài văn tế Nôm 184 câu thơ song thất lục bát và một cuốn truyện thơ Nôm 3.254 câu lục bát, nhưng sức sống của nó lại vô cùng mạnh mẽ với những giá trị hết sức phong phú. |
Nói đến Nguyễn Du, người Việt chúng ta cũng như bạn bè trên thế giới, đều nghĩ ngay đến Truyện Kiều – “khúc Nam âm tuyệt xướng” (từ dùng của Đào Nguyên Phổ). Khi Nguyễn Du đưa cho người bạn của mình là Phạm Quý Thích cuốn Đoạn trường tân thanh để đi khắc in ở phố Hàng Gai (Thăng Long), ông không nghĩ tập giấy dó mỏng manh của mình sẽ trở thành kiệt tác và có số phận kỳ lạ vào bậc nhất trong các tác phẩm văn chương của xứ sở này. Nhưng với Phạm Quý Thích, bằng con mắt xanh hiếm có, ông đã tiên đoán ngay tác phẩm này sẽ có sức sống lâu dài: Bạc mệnh cầm chung oán hận trường (Tiếng đàn bạc mệnh của Thúy Kiều đã dứt nhưng oán hận thì còn mãi). Và quả vậy, từ khi Truyện Kiều được khắc in và truyền bá, thì từ vua quan cho tới thứ dân ai cũng đọc Kiều, mê Kiều.
3. Điều gì tạo nên sức hút của Truyện Kiều như thế? Phải chăng vì Truyện Kiều kể cho ta nghe câu chuyện khổ đau của kiếp người qua bao nhiêu dâu bể? Con người bị săn đuổi, bị bao vây, dồn ép, bị mua đi bán lại, bị đày đọa mà không ai dám bênh vực, cứu giúp cho đến khi phải tự chọn lấy cái chết mới thôi.
Truyện Kiều chia sẻ với chúng ta, băn khoăn cùng chúng ta một câu hỏi lớn về “phận đàn bà” và cũng là số phận con người. Truyện Kiều trong khi thể hiện các số phận khác nhau đã đi sâu vào phân tích tâm lý, từng ngõ ngách tế vi của tâm lý con người, làm cho các nhân vật trở nên vô cùng sống động, như có thể nhìn thấy ngoài đời, như có thể cầm tay, chào hỏi, trò chuyện. Đó là Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải, là Thúc Sinh, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến, Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà… Những nhân vật từng bước thẳng từ trang văn ra đến cuộc đời.
Điều kỳ diệu nhất khiến cho Truyện Kiều còn hiện diện giữa chúng ta hôm nay chính là ngôn ngữ tác phẩm. Đó là một thứ ngôn ngữ nghệ thuật vô cùng phong phú và tinh tế; nó vừa có cái trang nghiêm cao cả, lại vừa có cái giản dị bình thường; vừa có cái hào hùng mạnh mẽ, lại cũng có cái trầm thống bi thương; vừa có cái mượt mà chải chuốt, lại vừa có cái thô ráp đời thường… Như suối nguồn, như vực sâu không bao giờ cạn. Truyện Kiều đã đưa tiếng Việt trở thành một thứ ngôn ngữ văn hóa sánh ngang với các ngôn ngữ lớn nhất trên thế giới. Truyện Kiều là bằng chứng hùng hồn nhất cho sức sống tiềm tàng của ngôn ngữ dân tộc, của văn hóa dân tộc, và cũng là của bản lĩnh dân tộc – một dân tộc dù gian khổ, tủi nhục bao nhiêu, nhưng vẫn không bao giờ chịu bị đồng hóa, không chịu cúi đầu.
4. Sức sống, sức lan tỏa tác phẩm của Nguyễn Du cho chúng ta những bài học sâu sắc về thái độ sống của người trí thức và quan niệm sáng tạo nghệ thuật của người cầm bút. Cuộc sống, đối với Nguyễn Du đó là sự lựa chọn và giải quyết mâu thuẫn giữa thái độ dấn thân làm người có ích nhưng đồng thời không bị vong thân trước quyền lực và danh lợi. Sáng tạo nghệ thuật, đối với Nguyễn Du, đó là con đường gian truân trong sự hoàn thiện tài năng, học vấn và nhân cách, đó là sự lựa chọn chỗ đứng của người nghệ sĩ: Đứng về phía những người khốn khổ, những góc tối, góc khuất của cuộc đời để từ đó sáng tạo ra những tác phẩm chân thực, sâu sắc có sức rung động lòng người, giúp cho con người trở nên trong sáng, cao cả và đẹp đẽ hơn.
PGS.TS Đoàn Lê Giang
(Trưởng khoa Văn học và Ngôn ngữ, ĐH KHXH&NV TP.HCM)
Bình luận (0)