Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Nhạc sĩ và ca khúc “để đời”: Bài 3: Dư âm và hai mối tình thời son trẻ

Tạp Chí Giáo Dục

 Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý (ảnh do nhân vật cung cấp)
Nhắc đến nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, người ta nhớ ngay đến những ca khúc nổi tiếng in đậm trong lòng nhiều thế hệ yêu nhạc Việt Nam như: Mẹ yêu con, Tấm áo chiến sĩ mẹ vá năm xưa, Bài ca năm tấn, Một khúc tâm tình của người Hà Tĩnh, Người đi xây hồ Kẻ Gỗ, Dáng đứng Bến Tre, Cô nuôi dạy trẻ… Đặc biệt là ca khúc Dư âm gắn liền với hai mối tình thời son trẻ của ông.
Mặc dù đã bước vào tuổi 87, từng suýt chạm trán với tử thần bởi căn bệnh tai biến nhưng lão nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý vẫn rất vui vẻ, trí óc minh mẫn khi nhớ lại con đường đến với âm nhạc đầy kỷ niệm của mình…
Bản tình ca còn mãi…
Dư âm có thể coi là ca khúc tiền chiến duy nhất của Nguyễn Văn Tý. Ca khúc tuy không được phổ biến ở miền Bắc trong những năm chiến tranh nhưng lại được biểu diễn nhiều ở miền Nam trước năm 1975. Sau giải phóng, ca khúc được lưu hành rộng rãi, trở thành một trong những bản tình ca được nhiều công chúng yêu thích. Năm 1988, ông có viết thêm bài Dư âm 2 mang tên Một ánh sao trời nhưng mức độ lan tỏa trong khán giả không nhiều.
Ông kể: “Năm 1950, tôi lúc đó đang làm Trưởng đoàn văn công của Sư đoàn 304. Trong kỳ nghỉ phép, một người bạn thân rủ tôi về nhà anh ấy ở Quỳnh Lưu, Nghệ An chơi. Nhà anh bạn này có hai người em gái: một cô 22 tuổi và một cô 16 tuổi, mà tôi hồi đó đã 26 tuổi. Hình như ý muốn của anh bạn là giúp cho tôi “dính” với cô chị 22 tuổi để cho tôi và anh ấy trở thành anh em. Tôi gặp cô chị và cũng đôi lần trò chuyện, nhưng chẳng thấy có cảm xúc gì. Còn cô em mới 16 tuổi thuộc diện “chưa đến tuổi cập kê” nên phải tránh đi. Đến một hôm, chúng tôi đang ngồi cạnh nhau thì cô em gái (tên Hằng) bất ngờ xuất hiện, đến sau lưng chị rồi nhìn tôi với đôi mắt đen tròn lay láy khiến tôi sững sờ, đờ đẫn, rồi lặng im như người mất hồn. Hôm sau dưới ánh trăng, khi anh bạn cùng tôi uống trà ở ngoài sân thì cô em ôm đàn quay lưng lại phía tôi, cô hát gì, tôi không rõ, nhưng có vẻ như say đắm lạ thường. Khi về đến đơn vị, trong lòng tôi mang nặng một “dáng em đang ôm đàn” dưới trăng, đồng thời vang lên các khuôn nhạc “Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ/ Không gian trầm lắng như âu yếm ru ai trong giấc mơ/ Mái tóc nhẹ rung, trăng vờn làn gió…”. Đêm hôm ấy, khi mọi người đã ngủ, tôi cùng với cây đàn và ngọn đèn dầu ngồi viết một lèo xong bài Dư âm. Cũng vì bản nhạc này có đoạn điệp khúc: “Hẹn em từ muôn kiếp trước/ Nhớ em mấy thuở bạc đầu/ Anh đã âu sầu vì đường tơ vương vấn/ Em để cung đàn đưa anh về đâu?” mà tôi bị đơn vị đưa ra kiểm điểm vì đã sáng tác một bài hát quá ủy mị, không hợp với thời kỳ đó. Tuy nhiên, bài hát Dư âm sau này lại trở thành bài hát nổi tiếng nhất của tôi…”. Kể đến đây, ông liền gọi đứa cháu lấy cây đàn guitar đến để ông dạo và hát lại đoạn vừa kể trên. Sau đó, ông kể tiếp: “Cuối năm 1957, tôi cùng các nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát, Đỗ Nhuận, Lưu Hữu Phước, Văn Cao được chỉ định thành lập Hội Nhạc sĩ Việt Nam bấy giờ được một thời gian thì tôi được “đặc cách” cho đi một số vùng miền để nghiên cứu dân ca. Một buổi chiều đi đến Vĩnh Yên, trời đổ mưa, tôi ghé vào một doanh trại trên đồi trú mưa. Thật bất ngờ, tôi tình cờ gặp lại Hằng, khi ấy cô đã gia nhập bộ đội. Nhưng rồi tôi cũng không nói được gì, như người mất hồn đi qua mặt cô thật nhanh như chạy trốn. Đến bây giờ và suốt đời, có lẽ tôi không sao quên được đôi mắt và nụ cười của người con gái ấy. Nhưng yêu là yêu cái dư âm đó thôi”.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý nhắn gửi với lớp nhạc sĩ trẻ hôm nay: “Tôi rất mừng vì lớp trẻ bây giờ được học hành đầy đủ về âm nhạc hơn hẳn thế hệ chúng tôi ngày xưa. Nhược điểm cơ bản của phong trào sáng tác nhạc trẻ nước ta hiện nay là chưa ý thức đầy đủ về ba chức năng của nghệ thuật: giáo dục tư tưởng, giáo dục thẩm mỹ, giải trí. Các bạn trẻ nên nhớ rằng, người nghệ sĩ là phải sáng tạo, làm ra cái mới chứ không được sao chép, vay mượn của người khác…”.
Còn một người phụ nữ khác rất yêu ca khúc Dư âm của ông và sau này gắn với ông suốt cuộc đời là bà Nguyễn Thị Bạch Lê, em gái ruột của cố nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương. Câu chuyện này cũng được chính nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý bật mí: “Đó là vào năm 1952, sau một chuyến đi công tác vào Bình Trị Thiên, nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương khi ra đem theo một người em gái đang hoạt động ở nội thành Huế ra vùng kháng chiến Liên khu IV (Đoàn Văn công Liên khu IV do nhạc sĩ Nguyễn Văn Thương phụ trách). Hồi đó bà Bạch Lê đẹp lắm, có rất nhiều người đã theo đuổi nhưng tôi biết bà có cảm tình đặc biệt với tôi. Bằng chứng là vào các đêm trăng sáng, tôi thường ôm đàn ra một góc rừng ngồi hát thì y như rằng một lúc sau Bạch Lê cũng có mặt. Bạch Lê chỉ nghe Dư âm có hai lần mà thuộc lòng. Sau đó, nhờ có sự ủng hộ và tác hợp của anh Nguyễn Văn Thương mà chúng tôi đã thành hôn, sống hạnh phúc với nhau đến ngày bà qua đời năm 2004…”. Đầu năm 2006, một đêm diễn mang tên Dư âm thuộc chương trình Con đường âm nhạc được tổ chức truyền hình trực tiếp trên VTV3 để vinh danh Nguyễn Văn Tý.
Học làm người Nam Bộ
Một ca khúc nữa mà nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý không bao giờ quên được trong sự nghiệp sáng tác của mình là Dáng đứng Bến Tre. Bởi lẽ, ông sinh ra tại Nghệ An và hầu hết khoảng thời gian trước khi sáng tác ca khúc này ông đều sống ở miền Bắc mà sao Dáng đứng Bến Tre lại rặt Nam Bộ, vừa trữ tình vừa hào hùng như những dòng sông miền châu thổ phù sa chảy dịu êm mà hoành tráng. Thì ra, thời còn kháng chiến chống Mỹ, cũng vì yêu những làn điệu dân ca Nam Bộ mà ông đã nhiều lần xin đi B (vào Nam) nhưng không được tổ chức chấp thuận. Sau ngày giải phóng, ông nhất quyết vào Nam cho bằng được. Ông phải mất hơn 5 năm ngược xuôi khắp các vùng đồng bằng sông Cửu Long để học làm người Nam Bộ. Nhạc sĩ đã sống như người dân trên những mảnh đất ấy. Nhưng mãi đến năm 1981, ông mới viết xong nốt nhạc cuối cùng của Dáng đứng Bến Tre “Ai đứng như bóng dừa/ Tóc dài bay trong gió/ Có phải người còn đó/ Là con gái của Bến Tre…”. Ca khúc nhanh chóng được khán giả cả nước yêu mến và sống mãi cho đến bây giờ.
HIỆP THANH

Bài 4: Nhớ mãi Đêm đông

Cố NSND – giáo sư Nguyễn Văn Thương được xem như là một trong những nhạc sĩ tiên phong của âm nhạc cải cách (tân nhạc) ở Việt Nam. Bên cạnh đó, ông còn là tác giả của nhiều tác phẩm khí nhạc, giao hưởng, nhạc phim được giới chuyên môn trong và ngoài nước đánh giá rất cao. Tuy nhiên, chỉ cần nhạc phẩm Đêm đông cũng đủ để tên tuổi của ông sống mãi trong lòng những người yêu nhạc.

 

Bình luận (0)