|
Cố nhạc sĩ Cao Văn Lầu (ảnh tư liệu của Huỳnh Công Minh)
|
“Từ là từ phu tướng/ Bảo kiếm sắc phong lên đàng/ Vào ra luống trông tin chàng/ Năm canh mơ màng…”. Những lời ca nhẹ nhàng nhưng sâu lắng của bài Dạ cổ hoài lang đã đi vào lòng người dân Nam Bộ, vang vọng mãi suốt gần 100 năm qua. Vào một đêm rằm Trung thu tháng 8 năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Vĩnh Hương, tổng Thạnh Hòa, tỉnh Bạc Liêu, nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã cho ra đời bài ca nổi tiếng này.
Nói thay tiếng lòng người vợ
Ít ai biết rằng, bản Dạ cổ hoài lang được nhạc sĩ Cao Văn Lầu (thường gọi là Sáu Lầu) sáng tác trong một hoàn cảnh khá éo le. Nỗi niềm ấy nhiều lần đã được chính ông thổ lộ với bạn tri âm: “Tôi viết bài này với tên gọi đầu tiên là Hoài lang, nghĩa là nhớ chồng bởi tôi rất thương vợ tôi, bà Trần Thị Tấn. Năm tôi viết nó thì tôi và vợ tôi đã ăn ở với nhau trong ba năm mà vẫn chưa có con. Hồi đó quan niệm “Tam niên vô tử bất thành thê” rất khắc nghiệt. Vợ chồng ăn ở với nhau trong ba năm mà vợ không sinh con thì chồng được quyền bỏ cưới người khác hầu có con nối dõi tông đường. Thời phong kiến xa xưa có những quan niệm không đúng. Người ta cho rằng vợ chồng không sinh con là do lỗi của người phụ nữ. Tiếng ra, tiếng vào buộc tôi phải thôi vợ, nhưng tôi không đành”.
Trước sức ép của gia đình, ông và vợ buộc phải tạm xa nhau, vợ ông thu xếp đồ đạc về lại quê nhà, còn ông ở lại trong cảnh cô đơn nhưng vẫn chung thủy với vợ. Đêm đêm một mình chăn đơn gối chiếc, ông nằm nghe tiếng trống chùa Vĩnh Phước gần nhà vọng lại đến não lòng. Ông liên tưởng đến tình cảm của vợ chồng ông chẳng khác gì thiếu phụ trông chồng như hòn Vọng Phu, cùng lúc cảnh đất nước đang bị thực dân phong kiến thống trị. Tâm tư nặng trĩu u buồn nên Sáu Lầu thường một mình ôm cây đờn kìm ngồi đàn trong đêm khuya thanh vắng. Ông cũng thừa hiểu người bạn đời cũng đau xót như ông. Bản Hoài lang ra đời trong hoàn cảnh như thế. “…Đường dù xa ong bướm/ Xin đó đừng phụ nghĩa tào khang/ Đêm luống trông tin chàng/ Ngày mỏi mòn như đá Vọng Phu/ Vọng Phu vọng luống trông tin chàng…”. Tuy tác phẩm chưa hoàn chỉnh, nhưng Sáu Lầu đã cùng anh em tài tử địa phương đờn tới đờn lui bản này để lấy ý kiến đóng góp của các đồng nghiệp về phương diện sáng tác. Một lần, Sáu Lầu có nhắc đến tiếng trống công phu ở chùa Vĩnh Phước làm cho bản nhạc của ông thêm nỉ non từng cung bậc. Thế là các người bạn đề nghị thêm hai chữ Dạ cổ (tiếng trống về đêm) cho ý nghĩa thêm sâu nặng. Sáu Lầu hoan nghênh để sau đó bản nhạc có tên Dạ cổ hoài lang (tức Đêm nghe tiếng trống nhớ chồng). Đó cũng chính là tiếng lòng của người vợ trẻ khi nghe tiếng trống điểm canh khuya mà lòng nhớ chồng da diết. Lập tức, bài ca nhanh chóng được lan truyền bởi giai điệu bài ca toát ra không chỉ là tình cảm nhớ mong chồng mà còn là nỗi buồn lớn của thời đại, tâm tư của người dân Nam Bộ trong thời điểm thực dân Pháp đô hộ. Cũng chính nhạc sĩ Cao Văn Lầu lúc sinh thời kể lại rằng: “Dù vợ chồng tôi bị ngăn cách nhưng rồi tôi vẫn bí mật gặp nhau. Không lâu sau vợ tôi có mang và hạ sinh được đứa con trai. Vậy là gia đình cho phép chúng tôi đoàn tụ. Sau này, vợ tôi tiếp tục sinh cho tôi thêm 6 người con nữa, hầu hết các con tôi đều tham gia kháng chiến”. Từ 1918 đến năm 1974, ngoài bản Dạ cổ hoài lang, nhạc sĩ Cao Văn Lầu còn sáng tác thêm 10 bản nữa, nhưng đa phần chỉ lưu hành ở Bạc Liêu.
Nhạc sĩ Cao Văn Lầu sinh năm 1892 tại xã Thuận Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An. Năm lên 9 tuổi, ông theo gia đình đến lập nghiệp tại Bạc Liêu rồi ở luôn tại đây. Lúc bấy giờ tại xóm Rạch Ông Bổn, cách nhà ông không xa có một thầy đàn nổi tiếng tên Lê Tài Khí (nhiều người gọi Hai Khị hay Nhạc Khị) bị mù cả hai mắt thêm có tật ở chân nhưng ngón đàn của ông thật điêu luyện. Sáu Lầu nhờ cha dẫn đến thầy Hai Khị để xin học đàn mỗi đêm. Nhờ yêu thích và siêng năng, ông mau chóng sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ như đàn tranh, cò, kìm, trống lễ và trở thành một nhạc sĩ nòng cốt trong ban cổ nhạc của thầy Hai Khị. Nhạc sĩ Cao Văn Lầu mất năm 1976 tại Bạc Liêu, thọ 84 tuổi.
Từ Dạ cổ hoài lang đến bài vọng cổ
Từ sau năm 1920 thì bản Dạ cổ hoài lang được phổ biến càng ngày càng rộng khắp miền Tây Nam Bộ, với từng thời gian và tiết tấu được tăng thêm. Theo GS-TS Trần Văn Khê thì: “Khởi điểm Dạ cổ hoài lang của nhạc sĩ Cao Văn Lầu là nhịp 2. Nhưng khi hòa nhập vào sân khấu cải lương thì soạn giả tiên phong góp công đầu để biến bản nhạc này từ nhịp 2 trở thành nhịp 4 là Huỳnh Thủ Trung (tức Tư Chơi). Tiếng nhạn kêu sương là bản Vọng cổ hoài lang nhịp 4 đầu tiên do soạn giả này sáng tác năm 1925. Trên những chặng đường phát triển, khi bản Vọng cổ hoài lang được nâng lên nhịp 8 (từ khoảng năm 1934-1944) thì nó có tên mới là Vọng cổ không còn cái đuôi hoài lang nữa. Từ năm 1944-1954, vọng cổ tăng lên nhịp 16; thời kỳ kế tiếp từ 1955-1964 tăng lên nhịp 32 rồi nhịp 64 cho đến ngày hôm nay…”.
Sau này, nhiều tác giả còn ghép bản vọng cổ với tân nhạc gọi là tân cổ giao duyên rất ăn ý đã làm khán giả say mê lòng người không ít. Bản vọng cổ đã có sức sống mãnh liệt trong lòng công chúng, nó chiếm lĩnh tình cảm tất cả các tầng lớp từ trí thức, đến những người bình dân nhất. Cũng chính bản vọng cổ đã khẳng định sức sống và vị trí của mình bởi tính chất đa dạng: hỉ, nộ, ái, ố… Đặc điểm này đã nhanh chóng chắp cánh cho nhiều lớp nghệ sĩ nổi danh: Cô Ba Đắc, Năm Nghĩa, Cô Ba Cần Thơ, Năm Trà Vinh, rồi Út Trà Ôn, Út Bạch Lan, Thanh Nga, Bạch Tuyết, Phượng Liên, Lệ Thủy, Mỹ Châu, Thanh Kim Huệ, Tấn Tài, Minh Cảnh, Minh Phụng, Minh Vương, Thanh Sang, Thanh Tuấn, Vũ Linh… Nhờ những câu vọng cổ mà họ được khán giả xem như thần tượng.
Hiệp Thanh
|
Cứ đến mùa Trung thu hàng năm, ở Bạc Liêu lại tổ chức kỷ niệm ngày mất và ngày ra đời bản Dạ cổ hoài lang của nhạc sĩ Cao Văn Lầu – người đã để lại cho nghệ thuật dân tộc một di sản văn hóa độc đáo của cả nước nói chung và Nam Bộ nói riêng.
|
Bài cuối: Anh Bằng và những tình khúc “không cô đơn”
Nhạc sĩ Anh Bằng thường tâm sự rằng, ông không muốn ca khúc của mình bị “cô đơn” lẻ loi trong âm nhạc hay chỉ dành riêng cho một giới hạn người nào đó đồng cảm mà đã sáng tác là phải đưa đến đại đa số quần chúng yêu thích. Mong muốn của ông đã trở thành hiện thực. Bởi cho đến thời điểm này, những ca khúc do ông sáng tác hoặc phổ thơ của nhiều thi sĩ nổi tiếng luôn im đậm trong lòng khán giả như Hai mùa mưa, Sầu lẻ bóng, Bướm trắng, Hoa học trò, Chuyện hoa sim, Chuyện tình Lan và Điệp…


Bình luận (0)