Nhịp cầu sư phạmNhịp sống học đường

Nhận diện việc học để nâng cao hiệu quả giáo dục

Tạp Chí Giáo Dục

Một tiết ôn tập môn sử của học sinh Trường THPT Lương Văn Can (TP.HCM) chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp THPT năm 2012

Học là một sự nghiệp trọng đại và lớn lao đối với mỗi cá nhân; GD-ĐT là quốc sách hàng đầu của mỗi dân tộc. Vậy nên việc ưu tiên cho GD-ĐT là điều dễ hiểu. Vì vậy, có những gia đình vì mong muốn sự đổi đời của con đã bất chấp đói nghèo cho con học hành đến nơi đến chốn.
Học là một hoạt động của bất kỳ cá nhân nào có nhu cầu khám phá, tìm hiểu tri thức. Kết quả học tập của mỗi cá nhân do nhiều yếu tố mang lại. Trước hết chính là nền tảng nhận thức của mỗi người bởi “không có bột” thì chẳng thể “gột nên hồ”; là nỗ lực của mỗi người trên con đường chinh phục tri thức, bởi tri thức mà mỗi người thu nhận được là kết quả của sự chủ động thu lượm và phản ánh thế giới quan chứ không thể nhờ người khác hái lượm giùm; còn là ở chỗ người vạch đường chỉ lối, người dìu dắt hướng dẫn, chất lượng của phương tiện trên hành trình; cách kiểm tra đánh giá, phát hiện, bồi dưỡng…
Ở bậc phổ thông, học không chỉ để biết những bài văn hay, biết cách giải toán mà còn là việc hình thành và phát triển nhân cách có định hướng – con người hoàn thiện; là con ngoan, trò giỏi, có đạo đức lối sống lành mạnh, hành xử có trách nhiệm với bản thân, gia đình và cộng đồng… Bậc cao hơn các em phải được học để giải quyết vấn đề thực tế một cách chủ động, tích cực và sáng tạo.
Việc học không là nhồi sọ, không là áp đặt bởi phải xem việc học cũng là một nhu cầu. Cho người học thấy được con đường nhận thức ở mỗi giai đoạn gắn với việc học quan trọng như thế nào. Phải từ lợi ích đó mới sinh ra nhu cầu, mỗi cá nhân phải nỗ lực, phải tạo cho mình tâm thế chủ động, tích cực trong việc học.
Khá nhiều sinh viên Việt Nam ra trường không có việc làm hoặc làm không đúng ngành nghề được đào tạo. Do giảng đường không đủ khả năng giúp các em biết cách làm việc, tự các em không hoàn thiện kỹ năng; xã hội không có nhu cầu, hay vì lý do nào khác? Mâu thuẫn này đã tồn tại từ lâu, vậy nhận diện nó như thế nào?
Thứ nhất, trong giáo dục chưa có được sự quan tâm và phối hợp đúng mực giữa các chủ thể quản lý người học. Gia đình thiếu quan tâm, có khi gây áp lực buộc con, em phải học nhưng học không vào sinh nản chí, sa đà… Cần quan tâm, phối hợp thường xuyên để động viên tinh thần, biết được năng lực thực tế của các em nhằm có định hướng nghề nghiệp tương lai phù hợp. Biết cách chấp nhận “thua” để rẽ vào một hình thức đào tạo, dạy nghề khác. Thứ hai, chưa khởi tạo cho người học nhu cầu học. Nhu cầu này cũng quan trọng như hành động làm cho người khác khát nước hay hơn nhiều là bắt người ta uống nước. Vì khi đã có nhu cầu (chính đáng) người ta sẽ có cách thức chủ động để đạt được mục đích. Người dạy không chỉ là người tổ chức lớp, hướng dẫn người học tiếp cận tri thức mà còn khơi gợi nhu cầu cho người học. Chủ thể nhận thức thụ động, lười biếng thì kết quả học tập sẽ không đạt yêu cầu. Thứ ba, giảng viên ĐH cần phải có kinh nghiệm thực tế. Là những tấm gương sáng trong học tập – tự học và nghiên cứu khoa học; có đạo đức lối sống, cách hành xử và tác phong chuẩn mực nhưng vẫn phải đảm bảo thân thiện, gần gũi; giỏi truyền đạt và hình tượng hóa tri thức để người học dễ liên tưởng, nắm bắt. Thứ tư, môn học nên là các chuyên đề. Người học có thể đưa ra các giải pháp giải quyết tồn tại, hoàn thiện quy trình; hoặc cải thiện công nghệ, tiết giảm nguyên – nhiên liệu và làm “sạch hơn” quá trình sản xuất… Thứ năm, phân biệt rõ cấp độ ĐH-CĐ-TCCN, đào tạo và dạy nghề. Xã hội yêu cầu cử nhân – kỹ sư, kỹ thuật viên, công nhân… làm gì? làm như thế nào? để có cách thức trang bị kiến thức cho họ, tránh dàn trải hoặc thiếu hụt. Tốt nghiệp là kỳ tổng kết đánh giá năng lực của người học. Thông qua đó phản ảnh quá trình vận hành một bộ máy quản lý giáo dục cụ thể, năng lực dạy điển hình và hơn hết là hiệu quả đầu tư cho sự nghiệp trồng người, để người học có thể làm chủ được tri thức, không lạc hậu khi bước ra ngoài giảng đường. Chuẩn đầu ra của cơ sở đào tạo là cơ sở đánh giá năng lực của mỗi đơn vị; qua đó góp phần cải biến xã hội theo định hướng.
Nhận diện cho rõ chức năng nhiệm vụ để làm cho tốt trọng trách, sứ mệnh được giao; làm chủ quá trình và tạo ra được các chuyển biến tích cực trong xã hội là yêu cầu cho tất cả các lĩnh vực, không riêng ngành GD-ĐT. Sản phẩm của nền giáo dục là một chỉnh thể với sự tham gia của nhiều lĩnh vực, nhiều đối tượng trong xã hội. Làm gì? làm như thế nào? không hẳn là chuyện của riêng ai. Cá nhân chỉ có thể góp phần nhỏ trong cái nhìn hạn hẹp.
Nguyễn Bá Khoa
(Trường ĐH Tài nguyên và Môi trường TP.HCM)
Đổi mới giáo dục là việc nên làm thường xuyên để phù hợp quy luật vận động và phát triển. Nhưng đổi mới giáo dục căn bản là đổi mới tư duy, tiếp cận với công nghệ mới; đổi mới nhưng phải đảm bảo sự ổn định, tránh kiểu “ăn xổi ở thì”.
 

Bình luận (0)