Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Nhân lực ngành y tế: Cần cả chất và lượng

Tạp Chí Giáo Dục

 Bên cạnh những thuận lợi, ngành y tế vẫn gặp khá nhiều khó khăn trong công tác khám và điều trị bệnh cho nhân dân. Một khó khăn lớn của ngành là thiếu y, bác sĩ, đặc biệt là bác sĩ có chuyên môn cao, trong khi số lượng bệnh nhân ngày càng lớn. Nhiệm vụ đặt ra trước mắt của ngành y tế là tăng số lượng cũng như chất lượng đội ngũ cán bộ y tế (CBYT).
Nhân lực y tế : Thiếu và yếu
Thiếu bác sĩ điều trị đang khá phổ biến ở các cơ sở y tế. Bác sĩ Vũ Thị Kim Nhung – Trưởng Khoa Nhi, Bệnh viện tỉnh Phú Thọ cho biết: “Số bệnh nhi điều trị tại khoa trung bình từ 100-110 cháu. Số bệnh nhi đến khám ngày cao điểm lên tới 80 cháu, nhưng cả khoa chỉ có 8 bác sĩ, nên áp lực công việc là rất lớn”.
Ở tuyến huyện, sự thiếu hụt CBYT trình độ cao còn nhiều hơn. Bác sĩ Nguyễn Thị Hợp – Giám đốc Bệnh viện đa khoa huyện Yên Lập cho biết: “Bệnh viện chúng tôi có 6 khoa phòng, với chỉ tiêu 100 giường bệnh như hiện nay thì cần phải có tới 30 bác sĩ, nhưng thực tế chỉ có 10 bác sĩ (trong đó có 2 bác sĩ đang đi học). Trung bình một bác sĩ phải khám cho 80 lượt bệnh nhân/ngày. Như vậy, sức ép công việc khám, chữa bệnh và trực chuyên môn là rất lớn”.
Còn bà Đặng Thị Minh, Giám đốc Sở Y tế Nam Định cho biết, nguồn nhân lực trong ngành y tế của tỉnh đang thiếu trầm trọng. Đến năm 2015, Nam Định cần bổ sung 429 bác sỹ, 161 dược sỹ. Tuy nhiên, mỗi năm tỉnh chỉ tuyển được từ 33-35 bác sỹ và 4-5 dược sỹ, bằng 40% nhu cầu.
Ảnh minh họa. Nguồn: thanhnien.vn
Không chỉ ở Phú Thọ, Nam Định, tình trạng thiếu CBYT diễn ra khắp cả nước. Theo kết quả khảo sát của Cục Quản lý khám, chữa bệnh (Bộ Y tế), số lượng nhân lực y tế cho lĩnh vực khám, chữa bệnh còn thiếu so với định mức biên chế và nhu cầu thực tế. Hiện nay, ngành y tế đang áp dụng chế độ làm việc theo giờ hành chính. Nếu chuyển sang chế độ làm việc theo ca thì số cán bộ y tế ở các bệnh viện công lập sẽ cần tăng thêm khá nhiều. Cụ thể, trong khu vực khám, chữa bệnh, hiện có 141.148 cán bộ, nhu cầu cần có theo định mức biên chế là 188.182 cán bộ. Trong lĩnh vực điều trị ở cả ba tuyến, mới chỉ tính làm việc theo giờ hành chính đã cần bổ sung tới hơn 47 nghìn cán bộ, nếu làm việc theo ca thì con số đó là hơn 80 nghìn cán bộ. Ngay tại tuyến trung ương (36 bệnh viện) cũng bị thiếu cán bộ, một số chuyên khoa khó có nguồn nhân lực để tuyển dụng là giải phẫu bệnh, sinh hóa, xét nghiệm, tâm thần, lao, phong…
Theo kết quả nghiên cứu gần đây của Bộ Y tế, hiện nguồn nhân lực y tế nước ta mới đạt tỷ lệ 40,5 cán bộ y tế/10.000 dân, trong đó có gần 7 bác sĩ/10.000 dân. CBYT đã thiếu lại phân bố không đồng đều. Cả nước có 275.622 CBYT trong khối công lập, trong đó ở trung ương chiếm 28.072 người, đạt tỷ lệ 10,2% và địa phương là 247.550 người, đạt tỷ lệ 89,9%. Số CBYT phần lớn tập trung ở tuyến địa phương, tuyến trung ương chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ nhưng số bác sĩ, dược sĩ đại học lại tập trung phần lớn ở khu vực này. Đây là một thiệt thòi lớn cho y tế địa phương.
Số lượng CBYT có trình độ cũng còn chiếm tỷ lệ rất nhỏ, tỷ lệ bác sĩ chuyên khoa II chỉ có 3.027 người, chiếm 1,1%, chuyên khoa I là 21.900 người, chiếm 7,9%, CBYT có trình độ đại học chiếm 17,7%, số còn lại lên tới 73,3%.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, có sự thiếu và mất cân đối về nhân lực ở các chuyên ngành, đặc biệt ở những chuyên ngành có thu nhập thấp như y học dự phòng, y tế công cộng, nhi, truyền nhiễm, y pháp, giải phẫu bệnh, lao, phong…
Nhân lực y tế cũng phân bố mất cân đối giữa các vùng miền. Nhân lực có trình độ cao như bác sĩ, dược sĩ đại học, đặc biệt là đào tạo sau đại học chủ yếu tập trung ở thành thị và trung tâm lớn, cả khu vực tư nhân và công lập. Bên cạnh đó, cán bộ y tế có trình độ cao đang có xu hướng tập trung về tuyến trên, về những nơi có điều kiện tốt hơn, lĩnh vực chuyên môn có sức hấp dẫn… bỏ lại tuyến dưới, những vùng khó khăn.
Do việc quản lý nhân lực y tế còn chưa hiệu quả cũng như chưa có cơ chế ràng buộc và khuyến khích với người sau khi được đào tạo y và dược, đặc biệt là bác sĩ, dược sĩ đại học, những người được đào tạo trình độ sau đại học hoặc có trình độ chuyên môn cao nên tình trạng chảy máu chất xám vẫn đang diễn ra. Người có trình độ cao đang chuyển dần sang khối y tế tư nhân. Công tác đào tạo nhân lực chuyên ngành quản lý còn hạn chế, hơn nữa, do ta chưa xây dựng thông tin về thị trường lao động y tế cũng các chính sách phù hợp với thị trường lao động để phân bổ hợp lý.
Cần những giải pháp khả thi
Dự thảo Quy hoạch phát triển nguồn nhân lực y tế giai đoạn 2011-2020 đề ra mục tiêu: “Phấn đấu đến năm 2020 sẽ có 52 nhân lực y tế (tất cả các chuyên ngành)/10.000 dân, trong đó có 10 bác sĩ/10.000 dân; 12 điều dưỡng/10.000 dân; 2,5 dược sĩ đại học/10.000 dân; 8 kỹ thuật viên/10.000 dân. 100% các trường đại học, cao đẳng và trung cấp công lập hoặc ngoài công lập đạt tiêu chuẩn theo quy định của Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo về cơ sở vật chất, điều kiện chuyên môn dành cho công tác đào tạo; bảo đảm đủ nhân lực cho các chuyên ngành có sức thu hút thấp; các cơ sở đào tạo nhân lực y tế bậc đại học có bệnh viện thực hành trực thuộc, đảm bảo điều kiện giảng dạy, nghiên cứu khoa học, thực hành…, đồng thời tham gia khám, chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân”.
Đây là một thách thức lớn đối với ngành y tế, bởi không chỉ tăng số lượng CBYT mà còn phải đảm bảo về cơ cấu, chất lượng để đầu ra không được thấp hơn, không được chạy theo số lượng mà bỏ qua chất lượng. Trong khi đó, định mức chi cho đào tạo sinh viên y dược thấp và không khác gì các ngành học khác, trong khi thực tế nhu cầu cần phải cao gấp khoảng 3 lần…
Để hạn chế tình trạng thiếu và mất cân đối về nhân lực, Đề án 1816 của ngành y tế đã ra đời và phát huy hiệu quả. Tuy nhiên, trong thời gian tới, cần triển khai thực hiện đề án tốt hơn nữa, vì đây là giải pháp hữu hiệu trong hiện tại khi nguồn nhân lực y tế còn thiếu về số lượng và mất cân đối về bố trí cán bộ, hạn chế chất lượng giữa các tuyến y tế.
Có chế độ đãi ngộ hợp lý giữa các chuyên ngành trong ngành y tế nhằm thu hút và giữ lao động. Điều chỉnh chế độ động viên khuyến khích, tăng thu nhập và điều kiện sống, sinh hoạt, làm việc, cơ hội tăng chức để giữ cán bộ y tế ở tuyến dưới, tránh tình trạng bác sĩ giỏi chuyển lên tuyến trên làm việc. Bên cạnh đó, cần xây dựng chính sách về nghĩa vụ kết hợp với chế độ khuyến khích phù hợp với CBYT ở các khu vực miền núi, vùng sâu.
Nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu từng nói “Tương lai ngành Y tế nước ta có phát triển ngang bằng các nước có nền y tế phát triển hay không thì công tác đào tạo nhân lực có chuyên môn cao đóng vai trò tiên quyết”, do đó chúng ta cần chú trọng công tác đào tạo CBYT, đảm bảo chất lượng đầu ra của nguồn nhân lực này, trong đó đổi mới chương trình đào tạo, đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất cho các cơ sở đào tạo, nâng cao năng lực của cán bộ giảng dạy; dành nhiều thời gian cho nội dung khám chữa bệnh phổ biến ở nông thôn, miền núi trong điều kiện trang thiết bị hạn chế; tăng cường chương trình thực hành ở vùng nông thôn trong chương trình học.
Tiếp tục thực hiện đề án đào tạo cử tuyển, theo địa chỉ, ưu tiên vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa để đào tạo cán bộ cho địa phương, tăng cường đào tạo nhân viên y tế thôn bản đủ về số lượng, nâng cao về chất lượng để có thể đảm nhiệm được nhiệm vụ trong tình hình mới.
Theo Thương Huyền
(ĐCSVN)

Bình luận (0)