Với những câu thơ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong bài thơ Đất nước; ít học sinh nào hiểu được một loạt hình ảnh về các công đoạn làm ra hạt gạo: “Cha Mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn/Cái kèo cái cột thành tên/Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng/Đất nước có từ ngày đó”.
Cái sàng, cái nong là vật dụng không thể thiếu trong đời sống lao động của người nông dân thuở trước. Ngày xưa chỉ có sân đất nên nong lớn dùng để phơi lúa, ngô, đậu, vừng và các loại nông sản khác. Nia nhỏ hơn nong; dùng để sảy đưa bụi bặm, vỏ, tạp chất ra ngoài. Nong, nia được đan bằng nan ba, rất khó vì có nghề mới đan và lận tròn trịa được.
Nan tre đủ tuổi được phơi trên giàn bếp cả năm, mang xuống rửa sạch, vót lại ánh lên màu cánh gián bóng loáng, chắc bền… Mỗi cái nong, cái nia, cái sàng, cái giần đều là một tác phẩm nghệ thuật dưới bàn tay tài hoa của người nông dân tay lấm chân bùn!
Sàng cũng được đan bằng nan tre theo nan đôi. Có sàng thưa và sàng dày. Sàng thưa để chọn lựa những hạt ngô, đậu lớn; lọt xuống sàn là những hạt nhỏ hoặc hạt bị bể. Dùng sàng dày để sàng gạo, giữ lại những hạt gạo còn nguyên, làm cho những hạt tấm rơi xuống.
Câu thành ngữ “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn” bắt nguồn từ thực tế công việc sàng sảy ấy. “Học một sàng khôn” là học được nhiều điều khôn, nhiều điều hay lẽ phải trong cuộc sống. Nhưng “sàng” ở đây còn có một nghĩa ẩn sâu là những điều hay, điều khôn mà mình học được, thu lượm được cần có sự chọn lựa, sự sàng lọc thì mới gọi là “học” …
Từ cái nong, cái sàng của mẹ; bao mùa vàng đã đi qua, bao mùa trăng đã đi qua… Khi ngày trời nắng, anh em chúng tôi tiếp mẹ đưa nong ngô, nong đậu ra phơi. Khi trời chuyển mưa, dù cuộc chơi đang dang dở cũng phải ba chân bốn cẳng chạy về, giúp mẹ đưa nong vào cho khỏi ướt.
Quanh cái nong, cái sàng nơi lũy tre làng, bao câu hát, lời ca dệt nên duyên tình bao đôi lứa. “Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng/ Tre non đủ lá đan sàng được chăng? / Đan sàng thiếp cũng xin vâng/ Tre vừa đủ là non chăng hỡi chàng?”. Hoặc mượn công việc của người chăn tằm để gửi gắm tình thương sâu nặng: “Một nong tằm là năm nong kén/ Một nong kén là chín nén tơ/ Quản bao tháng đợi năm chờ/ Ai ơi dứt mối lìa tơ sao đành?”.
Những nong hạt gạo, hạt lúa vàng; những nong khoai được phơi khô chu đáo. Mẹ cất vào chum kín, để dành ăn dần quanh năm. Một hàng chum dựa sát tường nhà, đầy ắp ngô, khoai, lạc, đậu được lót lớp lá chuối khô dày lên trên chống ẩm mốc…
Làm xong phận sự, những chiếc nong, chiếc nia được đưa vào dựng ngay ngắn bên hè. Những đêm trăng sáng, lũ trẻ chúng tôi mang nong ra giữa sân ngồi, có khi vừa nằm vừa hát và thi nhau đếm sao “Một ông sao sáng/ Hai ông sáng sao…” hoặc xúm xít quanh bà nghe câu chuyện “ngày xửa ngày xưa…” đầy hấp dẫn. Theo hướng chỉ tay của ông, chúng tôi ồ lên khi ông nói kia là sông Ngân Hà, kia là con vịt lội…
Trăng tròn vành vạnh như chiếc nong vàng nằm phơi giữa cánh đồng mây thăm thẳm dường như cũng chung vui cùng lũ trẻ chúng tôi…
Lê Đức Đồng
(Trường THPT chuyên Nguyễn Thị Minh Khai – tỉnh Sóc Trăng)
Bình luận (0)