Trải qua thời gian học tập từ trước năm 1975 ở miền Nam, người viết bài này còn nhớ, trong giai đoạn ấy ngày tri ân thầy cô là vào dịp Tết Nguyên đán, theo truyền thống lâu đời của dân tộc ta “Mùng một Tết cha, mùng hai Tết mẹ, mùng ba Tết thầy”.

Vào ngày mùng ba Tết ta hằng năm, được cha mẹ chuẩn bị sẵn cặp bánh tét, lũ học trò nhỏ chúng tôi lễ mễ bê tới nhà thầy cô biếu người đã có công dạy dỗ mình và nhận phong bao hồng điều lì xì của thầy cô mừng tuổi.
Sau ngày đất nước thống nhất (1975), lần đầu tiên lũ trẻ chúng tôi mới biết đến ngày lễ thầy cô (20-11) với tên gọi “Ngày Hiến chương nhà giáo” – về sau là “Ngày Nhà giáo Việt Nam”.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, danh từ “hiến chương” chỉ “điều ước ký kết giữa nhiều nước, quy định những nguyên tắc và thể lệ về quan hệ quốc tế, ví dụ: Hiến chương Liên hiệp quốc”.
Tìm hiểu lịch sử Ngày Quốc tế hiến chương các nhà giáo, chúng ta được biết, vào năm 1946, tại Paris (thủ đô nước Pháp), tổ chức quốc tế các nhà giáo “Liên hiệp quốc tế các công đoàn giáo viên (tiếng Pháp: Fédération Internationale Syndicale des Enseignants – FISE) được thành lập; 3 năm sau, FISE soạn ra bản “Hiến chương các nhà giáo” gồm 15 chương với nội dung chủ yếu là đấu tranh chống nền giáo dục tư sản, phong kiến, xây dựng nền giáo dục, trong đó bảo vệ quyền lợi của nghề dạy học và nhà giáo, đề cao trách nhiệm và vị trí của nghề dạy học và nhà giáo; bản Hiến chương được thông qua tháng 8 năm 1954, tại Moscow (thủ đô Liên Xô).
Ở nước ta, mùa xuân năm 1953, đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ Giáo dục, GS. Nguyễn Khánh Toàn làm Trưởng đoàn dự hội nghị kết nạp công đoàn giáo dục của một số nước vào tổ chức FISE tại Vienna (thủ đô nước Áo), trong đó có Công đoàn Giáo dục Việt Nam. Bốn năm sau, vào tháng 8-1957, tại Warszawa (thủ đô Ba Lan), Hội nghị FISE có 57 nước tham dự, trong đó có Công đoàn Giáo dục Việt Nam, quyết định lấy ngày 20-11 làm “Ngày Quốc tế Hiến chương các nhà giáo”. Tại Việt Nam, “Ngày Quốc tế Hiến chương các nhà giáo” được tổ chức lần đầu tiên trên toàn miền Bắc vào ngày 20-11-1958; những năm sau đó, ngày lễ 20-11 còn được tổ chức tại các vùng giải phóng ở miền Nam.
Trong những năm chiến tranh, Công đoàn Giáo dục Việt Nam đã liên hệ với FISE nhằm mục đích tranh thủ các diễn đàn quốc tế, tố cáo âm mưu tội ác của quân xâm lược đối với nhân dân ta cũng như đối với giáo viên và học sinh; đồng thời, giới thiệu những thành tích của nền giáo dục cách mạng, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của giáo giới trên thế giới đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân ta. Cùng vào giai đoạn này, ở miền Nam, theo Sắc lệnh số 4205-GD của Bộ Quốc gia Giáo dục (chính quyền Việt Nam cộng hòa) ban hành ngày 28-11-1958, ngày 28-11 hằng năm được ấn định là “Ngày lễ Hiến chương các nhà giáo”, tổ chức trên toàn miền Nam; nhưng trên thực tế, qua tham khảo ý kiến của các bậc cao niên và nhiều nhà giáo, học sinh sống vào thời kỳ đó thì ngày lễ này chủ yếu chỉ diễn ra tại Sài Gòn chứ không được tiến hành rộng khắp miền Nam.
Sau ngày đất nước thống nhất, với ý nghĩa tích cực của ngày 20-11, theo nguyện vọng của giáo giới cả nước, ngày 28-9-1982, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã ban hành Quyết định số 167/HĐBT, do Đại tướng Võ Nguyên Giáp ký, quyết định lấy ngày 20-11 hằng năm là “Ngày Nhà giáo Việt Nam”. Điều 3 của quyết định hướng dẫn cụ thể: “Việc tổ chức ngày 20-11 hằng nǎm do Ủy ban nhân dân và Hội đồng giáo dục các cấp chủ trì, có sự phối hợp các ngành giáo dục và các đoàn thể nhân dân. Các cấp, các ngành cần phân công cán bộ lãnh đạo đi thǎm hỏi giáo viên, tổ chức các cuộc gặp mặt thân mật với giáo viên, nhân dịp này có thể tổ chức khen thưởng các giáo viên có thành tích. Việc tổ chức Ngày Nhà giáo Việt Nam cần được tiến hành trọng thể và thiết thực, tránh hình thức phô trương gây phiền hà cho học sinh và cha mẹ học sinh”. “Ngày Quốc tế Hiến chương các nhà giáo” từ đó trở thành “Ngày Nhà giáo Việt Nam”, được tổ chức vào ngày 20-11 hằng năm. Đây là ngày hội truyền thống của giáo giới nước ta, không chỉ là dịp để người học bày tỏ lòng biết ơn đến thầy cô mà còn là cơ hội để xã hội tri ân và tôn vinh những đóng góp to lớn của các nhà giáo trong sự nghiệp “trồng người”.
Truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam đã được vun bồi qua hàng ngàn năm lịch sử; trong văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam, các gia đình luôn khuyến khích con cái học hành chăm chỉ, coi đó là niềm tự hào, là danh dự gia đình, dòng tộc và nghề dạy học cũng luôn được đề cao lên vị trí hàng đầu. Người thầy được coi là biểu tượng cao quý cho sự học, là “khuôn vàng thước ngọc” của tri thức, đạo đức và nhân cách để học trò noi theo rèn đức, luyện tài về sau giúp nước. Những giá trị này ăn sâu vào tâm thức mỗi người, trở thành truyền thống “tôn sư trọng đạo” trong văn hóa Việt được lưu truyền qua trường kỳ lịch sử.
Bác Hồ kính yêu từng khẳng định: “Không có thầy giáo thì không có giáo dục. Không có giáo dục, không có cán bộ thì không nói gì đến kinh tế văn hóa”. Kế thừa và phát huy truyền thống “tôn sư trọng đạo” của dân tộc, thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là tương lai dân tộc, luôn hết sức chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục – đào tạo, trong đó có đội ngũ thầy cô giáo và những người làm công tác quản lý giáo dục, với những quyết sách nhằm phát huy mọi tiềm năng của con người.
Trong dịp gặp mặt đại diện nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam cách đây một năm, Tổng Bí thư Tô Lâm từng xác định: Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, giáo dục và đào tạo có vai trò đặc biệt quan trọng đối với những kỳ tích phát triển của dân tộc, trong suốt tiến trình cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là tương lai dân tộc; luôn luôn đặc biệt quan tâm chăm lo, có nhiều chủ trương, chính sách đầu tư cho giáo dục, xác định là đầu tư cho phát triển và ưu tiên, đi trước so với các lĩnh vực khác.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và đạt nhiều kết quả tích cực trong đổi mới giáo dục và đào tạo. Hệ thống giáo dục quốc dân từng bước được hoàn thiện theo hướng mở, xây dựng xã hội học tập; quy mô, mạng lưới cơ sở giáo dục, đào tạo phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập thường xuyên, học tập suốt đời của người dân. Cả nước đã hoàn thành phổ cập giáo dục cho trẻ em 5 tuổi; phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở tiếp tục được củng cố, duy trì và từng bước đạt chuẩn ở mức độ cao hơn. Chất lượng giáo dục phổ thông cả đại trà và mũi nhọn có chuyển biến tốt, được thế giới ghi nhận. Giáo dục thường xuyên phát triển đa dạng về nội dung và hình thức. Đổi mới giáo dục đại học gắn với tăng cường tự chủ được triển khai, đào tạo gắn kết hơn với nhu cầu thị trường lao động; nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ được đẩy mạnh; công bố khoa học quốc tế tăng mạnh, xuất hiện ngày càng nhiều hơn cơ sở giáo dục đại học và nhóm ngành đào tạo xếp hạng cao trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó, “chưa bao giờ lực lượng nhà giáo được Đảng, Nhà nước quan tâm như bây giờ”, các chế độ đãi ngộ về tinh thần và vật chất cho giáo viên cũng được cải thiện, mức lương trung bình của giáo viên đã tăng lên đáng kể trong những năm qua.
Tính từ ngày 20-11-1982 – lễ kỷ niệm Ngày Nhà giáo Việt Nam đầu tiên được tiến hành trọng thể trong cả nước – đến nay đã 43 năm, ngành giáo dục phát triển mạnh mẽ, đạt nhiều thành tựu to lớn. Nhìn lại lịch sử và tìm hiểu ý nghĩa Ngày Nhà giáo Việt Nam, chúng ta phấn khởi nhận thấy vai trò của nhà giáo ngày càng được nâng cao, vị thế xã hội ngày càng được khẳng định mạnh mẽ; từ đó, đội ngũ nhà giáo càng phải xác định đúng đắn tâm thế “kỹ sư tâm hồn” của mình, góp sức cùng các thế hệ nhà giáo Việt Nam khắc phục khó khăn, giữ vững ngọn lửa đam mê “yêu người – yêu nghề”, không ngừng đổi mới, sáng tạo, thi đua dạy tốt, tận tụy, tâm huyết với nghề để luôn xứng đáng là những tấm gương sáng mẫu mực, mô phạm về tri thức, đạo đức đối với học sinh và xã hội trong tiến trình phát triển của đất nước.
Đỗ Thành Dương

Bình luận (0)