Tuyên truyền pháp luậtGia đình - Xã hội

Những bác sĩ “hai trong một”: Bài 1: Tìm “thuốc” trong nghệ thuật

Tạp Chí Giáo Dục

BS.Trương Thìn

GS.BSTrương Thìn (nguyên Viện trưởng Viện Y học dân tộc TP.HCM) là một trong những cây đại thụ của ngành y học cổ truyền Việt Nam. Mở đầu câu chuyện, ông trầm ngâm: “Tôi có một giấc mơ. Giấc mơ ấy đã theo tôi ròng rã hơn 40 năm. Giấc mơ cải tổ ngành y tế nước nhà. Có lẽ vì không có cái duyên nên giấc mơ không thành, tôi rất buồn khổ”.
Giấc mơ không thành
Rồi ông chậm rãi, giọng khàn đục: “Tôi không thích nhân ngày thầy thuốc để mọi người chúc tụng nhau”. Bản chất con người ông là vậy, cương trực, thẳng thắn. Tôi hiểu ý ông, một BS chuyên ngành y học cổ truyền giàu tâm huyết với nghề. Ông lý giải vì sao không thích nghe lời ca ngợi, chúc tụng nhau: “Tôi đến các bệnh viện, thấy bệnh nhân nằm ngoài hành lang, dưới sàn bệnh viện, rồi nghe chuyện bác sĩ tắt trách … tôi đau lắm. Là người công tác nhiều năm trong ngành, tôi cảm thấy mình cũng có tội với dân nhưng lực bất tòng tâm”. Trở lại giấc mơ không thành, ông buồn khổ cũng có cái lý của ông. Không phải vì không đạt được danh vọng mà buồn vì những tồn tại yếu kém của ngành y. Ông trăn trở, bài học cải tổ ngành y trên thế giới đã có, đâu đâu cũng biết rõ và tránh được, có điều ta chưa vận dụng thực tế một cách khoa học.
Có thể nói, BS. Thìn là người tiên phong trong việc phát triển, kết hợp vận dụng y học hiện đại và y học cổ truyền trong khám chữa bệnh. Ông còn tham gia đào tạo đội ngũ thầy thuốc, hợp thức hóa hành nghề cho đội ngũ này để phát triển nhân lực cho ngành y tế TP.HCM nói riêng và cả nước nói chung. Theo thống kê, tính đến thời điểm này, TP.HCM có 1.300 phòng chẩn trị y học cổ truyền. Trong đó có trên 50 phòng khám từ thiện quy mô lớn, 100 cơ sở sản xuất và bào chế thuốc… Theo BS. Thìn, trung bình mỗi năm có khoảng 10 triệu lượt người đến khám và điều trị. Với số lượt bệnh nhân như vậy, phòng khám y học cổ truyền đã chia sẻ quá tải ở bệnh viện, góp phần phát triển ngành y tế của đất nước. Có được kết quả trên không thể không nhắc đến những đóng góp của ông. BS. Thìn tâm niệm, là một BS, ngoài trị thân bệnh còn trị tâm bệnh. Tâm bệnh rất quan trọng đối với bệnh nhân. Nó là “liều thuốc” để trị thân bệnh. Tâm bệnh nặng ắt thân bệnh nặng hơn. Vì lẽ đó, ông đã đưa thơ – nhạc – họa vào y khoa để làm đẹp tâm hồn của người thầy thuốc. Thầy thuốc mang cái đẹp ấy đến với bệnh nhân. Và ông đã làm được điều đó.
Một đời thong dong
Ngoài lao động chuyên môn ở phòng khám, viết sách, người BS 72 tuổi đời, 50 tuổi nghề còn lao động nghệ thuật không mệt mỏi. Ông từng phổ thơ Kiều. Nguyễn Du là một mẫu người đau khổ, Kiều của Nguyễn Du là một người con gái đau khổ, tuyệt vọng, không lối thoát. BS. Thìn muốn tìm đến cái đau khổ, sống chung với nỗi đau để bắt đầu cuộc hành trình đi tìm cái đẹp. Ông lại viết một Kiều khác: Kiều ca. Kiều ca bên bờ khát vọng. Ở Kiều ca, ông phát hiện ra rằng cái mình cần tìm không ở đâu xa, không có ở thế giới bên ngoài mà chính ở trong tâm hồn mỗi người. “Người ta mãi kiếm tìm thứ gì đó hão huyền, không thấy để rồi đau đớn tuyệt vọng”, BS. Thìn chiêm nghiệm.
Trước một xã hội đầy rẫy sự ganh ghét hơn thua, ông cũng đã có “liều thuốc” để giúp người đời giảm bớt căng thẳng và một phút nào đó, họ tự soi rọi lại mình. “Liều thuốc” ấy nằm trong ca từ của tập thơ – nhạc – họa Thong dong ca (NXB Thanh niên – 2011). Ông nghiệm ra rằng: “Có khi rơi vào hoàn cảnh mâu thuẫn, xung đột, phải chiến đấu, chống trả, tiêu hao rất nhiều sinh lực mà chẳng đi về đâu. Rồi Tôi lại tự khuyên mình/ Muốn ra tới trùng khơi/ Thì trôi theo dòng sông/ Muốn từ đây đi tới vạn dặm/ Thì chỉ cần ngồi yên, ngồi yên/ Có khi xuôi theo dòng sông không đi mà tới/ Có khi ngồi yên mà bay bốn phương trời/ Có khi không làm gì hết mà hoa trái quanh ta. (Ngồi yên mà bay). Ông ngồi đó trên chiếc ghế cũ kỹ, ôm đàn lướt phím, mắt nhắm nghiền say sưa thả hồn trong điệu nhạc phiêu bồng… Hôm nào cũng thế, ông vào vai một nghệ sĩ ngồi đàn và hát cho bệnh nhân nghe trước khi bắt đầu ngày làm việc.
Ông sáng tác bất kỳ lúc nào. Có thể là khi vừa bước xuống giường, có khi trong giờ ăn và cũng có lúc vừa cởi chiếc áo blouse trắng. Thơ của Trương Thìn có màu sắc, khi khô khan, khi nhẹ nhàng, bay bổng nhưng lại giàu triết lý nhân sinh. Ngoài những ca khúc do ông tự viết lời, ông còn phổ nhạc thơ của Phạm Thiên Thư, Đỗ Hồng Ngọc, Hàn Mặc Tử, Tôn Nữ Hỷ Khương… Riêng hội họa, ông chẳng theo trường phái nào. Ông đi tìm cái mới, cái riêng trong hội họa. Ông gọi tranh ông là tranh vô trí. Đó là cách để ông tự giải phóng những gì mà lâu nay ông đã “bỏ tù” chính ông. Ông bảo, con người đau khổ vì trí. Vẽ tranh trong trạng thái vô trí để phát hiện cái mới, từ đó mình ngộ ra mọi điều… trong cuộc sống.
Góc sáng tác của BS. Trương Thìn khá bừa bộn nhưng không giống kiểu bừa bộn của ông già điên Bùi Giáng, nó “đặc trưng”, dễ cảm như con người ông vậy. Trong kho nằm tít trên tầng 2 của căn nhà đặt phòng khám còn 15 chiếc valy tranh, mỗi chiếc đựng 500 bức. Ở phòng làm việc, hàng trăm bản thảo y khoa đang chờ in, đó là thứ “tài sản” vô giá cho đời.
Bài, ảnh: Trần Tuy An
“Tôi không phải là một nhạc sĩ, cũng chẳng là một nhà thơ, càng không phải điêu khắc hay họa sĩ. Tôi yêu thơ ca, nhạc họa và đến với nó với tư cách là một thầy thuốc. Không ít người vì cố ý (cũng có khi vô tình) gọi tôi là nhạc sĩ hoặc nhà thơ… tôi không lấy làm vui. Với tôi thơ – nhạc – họa là thuốc. Liều thuốc an ủi tâm hồn bệnh nhân và cho chính mình”, BS. Trương Thìn trải lòng. 
 

Bình luận (0)