Để rèn luyện trí nhớ, giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh ôn tập để hiểu sâu. Ảnh: Anh Khôi |
Trong cuộc sống của con người trí nhớ có vai trò rất quan trọng. Trí nhớ là điều kiện không thể thiếu được để con người có đời sống tâm lý bình thường, ổn định.
Trí nhớ phản ánh kinh nghiệm của con người trong mọi lĩnh vực: Nhận thức, tình cảm, hành vi, do đó trí nhớ có tính chất quyết định đời sống tâm lý con người, quyết định sự phát triển nhận thức, phát triển tư duy. Trong quá trình giảng dạy, người giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh học tập, ôn luyện kiến thức một cách khoa học, phù hợp với quy luật tâm lý của trí nhớ để có phương pháp học tập hiệu quả nhất.
Cơ sở sinh lý của trí nhớ là sự hình thành, giữ lại và gợi lại những đường liên hệ thần kinh tạm thời và sự diễn biến của các quá trình lý hóa trên vỏ não và phần dưới vỏ. Những đường liên hệ thần kinh tạm thời đó được củng cố tương đối vững chắc nhờ có sự lặp đi lặp lại nhiều lần và có thời gian nhất định để củng cố. Quá trình nhớ lại, nhận lại một sự vật, hiện tượng nào đó cũng có nghĩa là ta đã phục hồi những đường liên hệ thần kinh tạm thời đã được thành lập trước đây. Sự hình thành và giữ gìn các đường liên hệ thần kinh tạm thời, sự dập tắt và tái hiện chúng là cơ sở sinh lý của các liên tưởng, trí nhớ.
Các quá trình cơ bản của trí nhớ
Thứ nhất, quá trình trí nhớ. Đây là giai đoạn đầu tiên của một hoạt động nhớ. Ghi nhớ là quá trình hình thành dấu vết “ấn tượng” của đối tượng mà ta đang tri giác (tức là tài liệu phải ghi nhớ) trên vỏ não, đồng thời là quá trình hình thành mối liên hệ giữa tài liệu mới với tài liệu cũ đã có, cũng như mối liên hệ giữa các bộ phận của bản thân tài liệu mới với nhau. Thứ hai là quá trình gìn giữ. Đây là quá trình củng cố vững chắc những dấu vết đã hình thành được trên vỏ não trong quá trình ghi nhớ. Thứ ba là quá trình nhận lại và nhớ lại. Kết quả của quá trình ghi nhớ và giữ gìn được thực hiện trong quá trình nhận lại và nhớ lại. Nhận lại là sự nhớ lại một đối tượng nào đó trong điều kiện tri giác lại đối tượng đó. Nhớ lại là khả năng làm sống lại những hình ảnh của sự vật hiện tượng đã được ghi nhớ trước đây mà không cần dựa vào sự tri giác lại những đối tượng đã gây nên hình ảnh đã tri giác.
Quên là biểu hiện của sự không nhận lại hay nhớ lại
Quên diễn ra theo một số quy luật như sau: Những điều dễ quên, hay quên. Nội dung không liên quan hoặc ít liên quan đến nhu cầu của cuộc sống và hoạt động của bản thân, những cái không phù hợp với sở thích hứng thú. Những nội dung ít được củng cố hoặc không sử dụng thường xuyên trong hoạt động hàng ngày của cá nhân cũng dễ bị quên. Quên do gặp những kích thích mới lạ, kích thích mạnh. Quên diễn ra theo thứ tự nhất định và tốc độ không đồng đều: Chi tiết quên trước, ý chính quên sau. Trong chi tiết thì chi tiết nào phù hợp với hứng thú cá nhân, gây được ấn tượng cảm xúc sâu sắc thì lâu quên hơn. Ở giai đoạn đầu mới ghi nhớ, tốc độ quên khá nhanh và tốc độ quên giảm dần về sau. Có những điều bị quên “vĩnh viễn”, có những điều chỉ bị quên tạm thời, có trường hợp chỉ quên bộ phận, không có sự quên hoàn toàn tuyệt đối. Dù ta khó có thể nhận lại hoặc nhớ lại một điều gì đó thì trên vỏ não vẫn còn để lại một dấu vết nào đó về điều ấy. Trong một số trường hợp sự quên là cần thiết. Vì thế về một mặt nào đó, quên là một hiện tượng hợp lý và có ích. Song cần phải chống quên những điều cần phải giữ gìn và củng cố trong kho tàng ký ức của mỗi người.
Từ những đặc điểm của việc hình thành trí nhớ, quy luật của sự quên; giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh những biện pháp cơ bản để chống quên, đó là: Tiến hành ôn tập ngay sau khi nhớ tài liệu. Cần tổ chức cho học sinh tái hiện bài học, làm bài tập ứng dụng ngay sau khi học, đó là biện pháp quan trọng để giữ gìn và củng cố tri thức trong trí nhớ. Trong quá trình ôn tập phải ôn xen kẽ, không nên chỉ ôn liên tục một loại tài liệu, một môn học. Cần tiến hành ôn tập thường xuyên, ôn rải rác, kết hợp ôn từng phần với ôn toàn bộ (phân tán ra nhiều đợt đối với những tài liệu, những kiến thức khó và phức tạp); không nên ôn tập trung, liên tục trong một thời gian dài. Phải ôn tập một cách tích cực, cụ thể là tích cực nhớ lại và tư duy khi ôn tập, vận dụng nhiều giác quan vào việc ôn tập (mắt xem tài liêu, miệng đọc, tay viết; đối với học ngoại ngữ kết hợp cả nghe) tích cực vận dụng, luyện tập, thực hành khi ôn tập. Ôn tập kết hợp với nghỉ ngơi hợp lý. Cần thay đổi hình thức và phương pháp ôn tập để có thể đạt hiệu quả cao.
Để rèn luyện trí nhớ, chống quên giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh ôn tập để hiểu sâu, nắm rõ ý nghĩa nội dung cần ghi nhớ, tích cực thực hành ôn tập củng cố kiến thức, sắp xếp hợp lý khoa học về thời gian, nội dung ôn tập và đặc biệt xác định rõ trách nhiệm trong học tập, tạo ra được hứng thú với nội dung học tập, như vậy việc học tập sẽ thực sự hiệu quả.
Phạm Thị Ngần (Giảng viên tâm lý học)
Bình luận (0)