Chương trình giáo dục phổ thông 2018 ở lớp 5 bậc tiểu học được thực hiện trong năm học 2024-2025 có nhiều thay đổi so với chương trình cũ. Chính vì thế, việc nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa là việc cấp thiết mà tất cả các thầy cô giáo dạy lớp 5 phải thực hiện.
Điều dễ dàng nhận thấy nhất đó là môn tiếng Việt lớp 5 chương trình cũ được chia thành các phân môn: tập đọc, chính tả, luyện từ và câu, tập làm văn, kể chuyện. Trong khi đó môn tiếng Việt lớp 5 chương trình 2018 được chia thành: đọc, nói và nghe, luyện từ và câu, viết đoạn văn, văn bản và vận dụng. Chính vì sự khác biệt đó nên giáo viên cần phải tìm hiểu thật kỹ các yêu cầu cần đạt về nội dung dạy và học ở lớp 5 của bộ môn tiếng Việt.
Về nội dung đọc, phần kỹ thuật đọc, học sinh cần đọc đúng và diễn cảm các văn bản truyện, kịch bản, bài thơ, bài miêu tả, tốc độ đọc khoảng 90-100 tiếng trong 1 phút; đọc thầm với tốc độ nhanh hơn lớp 4; sử dụng được một số từ điển tiếng Việt thông dụng để tìm từ, nghĩa của từ, cách dùng từ và tra cứu thông tin khác; biết đọc theo những cách khác nhau (đọc lướt và đọc kỹ); ghi chép được vắn tắt những ý tưởng, chi tiết quan trọng vào phiếu đọc sách hoặc sổ tay. Phần đọc hiểu được chia ra thành 2 loại: văn bản văn học và văn bản thông tin. Ở văn bản văn học, học sinh phải biết đọc hiểu nội dung như nhận biết được một số chi tiết tiêu biểu và nội dung chính của văn bản, hiểu được nội dung hàm ẩn dễ nhận biết của văn bản; chỉ ra được mối liên hệ giữa các chi tiết, biết tóm tắt văn bản; hiểu chủ đề của văn bản. Ngoài ra, học sinh còn phải biết đọc hiểu hình thức như nhận biết được văn bản viết theo tưởng tượng và văn bản viết về người thật, việc thật; nhận biết được thời gian, địa điểm và tác dụng của chúng trong câu chuyện; hiểu từ ngữ, hình ảnh, biện pháp so sánh, nhân hóa trong văn bản. Không chỉ đọc hiểu nội dung và đọc hiểu hình thức, học sinh còn phải biết liên hệ, so sánh, kết nối như biết nhận xét về thời gian, địa điểm, hình dáng, tính cách của nhân vật qua hình ảnh trong truyện tranh hoặc phim hoạt hình; tìm được một cách kết thúc khác cho câu chuyện; nêu những điều học được từ câu chuyện, bài thơ, màn kịch; lựa chọn điều tâm đắc nhất và giải thích vì sao. Điểm nổi bật của nội dung đọc là học sinh cần phải đọc mở rộng. Ở phần đọc mở rộng, học sinh phải đọc tối thiểu 35 văn bản văn học (bao gồm văn bản được hướng dẫn đọc trên mạng Internet) có thể loại và độ dài tương đương với các văn bản đã học trong 1 năm học; thuộc lòng ít nhất 10-12 đoạn thơ, bài thơ hoặc đoạn văn đã học; mỗi đoạn thơ, bài thơ, đoạn văn có độ dài khoảng 100 chữ. Phần văn bản thông tin, ở đọc hiểu nội dung, học sinh cần nhận biết được những chi tiết tiêu biểu và các thông tin chính của văn bản; dựa vào nhan đề và các đề mục lớn, xác định được đề tài, thông tin chính của văn bản; nhận biết được mối liên hệ giữa các chi tiết; biết tóm tắt văn bản. Ở đọc hiểu hình thức, học sinh phải nhận biết được mục đích và đặc điểm của văn bản giải thích về một hiện tượng tự nhiên, văn bản giới thiệu sách hoặc phim, văn bản quảng cáo, văn bản chương trình hoạt động; nhận biết được bố cục và các yếu tố (nhan đề, đoạn văn, câu chủ đề) của một văn bản thông tin đơn giản; biết được cách triển khai ý tưởng và thông tin trong văn bản theo trật tự thời gian hoặc theo tầm quan trọng; nhận biết được vai trò của hình ảnh, ký hiệu hoặc số liệu trong việc thể hiện thông tin chính của văn bản (văn bản in hoặc văn bản điện tử). Ở liên hệ, so sánh, kết nối, học sinh phải nêu được những thay đổi trong hiểu biết, tình cảm, cách ứng xử của bản thân sau khi đọc văn bản. Ở đọc mở rộng, trong một năm học, học sinh phải đọc tối thiểu 18 văn bản thông tin (bao gồm văn bản được hướng dẫn đọc trên mạng Internet) có kiểu văn bản và độ dài tương đương với các văn bản đã học.
Về nội dung viết, phần kỹ thuật viết, học sinh phải biết viết hoa danh từ chung trong một số trường hợp đặc biệt khi muốn thể hiện sự tôn kính; biết viết đúng tên người, tên địa lý nước ngoài. Phần viết đoạn văn, văn bản, học sinh phải đạt các yêu cầu về quy trình viết và thực hành viết. Ở quy trình viết, học sinh phải biết viết theo các bước: xác định mục đích và nội dung viết, quan sát và tìm tư liệu để viết, hình thành ý chính, lập dàn ý cho bài viết, viết đoạn, viết bài, chỉnh sửa; viết được đoạn văn, văn bản thể hiện rõ ràng và mạch lạc chủ đề, thông tin chính, phù hợp với yêu cầu về kiểu, loại, có mở đầu, triển khai, kết thúc, các câu, các đoạn liên kết với nhau. Ở thực hành viết, học sinh cần phải viết được bài văn kể lại câu chuyện đã đọc, đã nghe với những chi tiết sáng tạo; viết được bài tả người, phong cảnh có sử dụng so sánh, nhân hóa và những từ ngữ gợi tả để làm nổi bật đặc điểm của đối tượng được tả; viết được đoạn văn thể hiện tình cảm, cảm xúc của bản thân trước một sự việc hoặc một bài thơ, câu chuyện; viết được đoạn văn nêu lý do vì sao tán thành hoặc phản đối về một hiện tượng, sự việc có ý nghĩa trong cuộc sống; viết được đoạn văn giới thiệu về một nhân vật trong một cuốn sách hoặc bộ phim hoạt hình; viết được báo cáo công việc, chương trình hoạt động, có sử dụng bảng biểu.
Nội dung nói và nghe, bao gồm 3 phần: nói, nghe, nói nghe tương tác. Ở phần nói, học sinh phải điều chỉnh được lời nói cho phù hợp với người nghe; trình bày ý tưởng rõ ràng, có cảm xúc, có thái độ tự tin khi nói trước nhiều người, sử dụng lời nói, cử chỉ, điệu bộ thích hợp; sử dụng được các phương tiện hỗ trợ phù hợp để tăng hiệu quả biểu đạt; biết dựa trên gợi ý, giới thiệu về một di tích, một địa điểm tham quan hoặc một địa chỉ vui chơi. Ở phần nghe, học sinh cần biết vừa nghe vừa ghi những nội dung quan trọng từ ý kiến của người khác; nhận biết được một số lý lẽ và dẫn chứng mà người nói sử dụng để thuyết phục người nghe. Ở phần nói nghe tương tác, học sinh phải biết thảo luận về một vấn đề có các ý kiến khác biệt; biết dùng lý lẽ và dẫn chứng để thuyết phục người đối thoại, biết tôn trọng sự khác biệt trong thảo luận, thể hiện sự nhã nhặn, lịch sự khi trình bày ý kiến trái ngược với người khác.
Ở nội dung luyện từ và câu, học sinh sẽ được học quy tắc viết tên người, tên địa lý nước ngoài; một số trường hợp viết hoa danh từ chung để thể hiện sự tôn trọng đặc biệt; vốn từ theo chủ điểm; sử dụng từ điển; nghĩa của một số thành ngữ dễ hiểu, thông dụng; nghĩa của một số yếu tố Hán Việt thông dụng, “đồng âm khác nghĩa”; từ đồng nghĩa; từ đa nghĩa và nghĩa của từ đa nghĩa trong văn bản; đại từ và kết từ; câu đơn và câu ghép; công dụng của dấu gạch ngang, dấu gạch nối; biện pháp tu từ điệp từ, điệp ngữ: đặc điểm và tác dụng; liên kết giữa các câu trong một đoạn văn, một số biện pháp liên kết câu và các từ ngữ liên kết.
Hoạt động vận dụng là hoạt động giúp học sinh vận dụng các nội dung đã học vào thực tế đời sống, kết hợp phát triển ngôn ngữ cho học sinh với hình thức phong phú, nội dung đa dạng.
Môn tiếng Việt lớp 5 chương trình mới với nhiều yêu cầu cần đạt mới, đòi hỏi rất nhiều công sức và tâm huyết của các thầy cô giáo giảng dạy lớp 5. Chính vì thế, các thầy cô giáo với tình yêu thương học trò, với tâm thế đổi mới giáo dục toàn diện cần phải nỗ lực, nỗ lực và nỗ lực nhiều hơn để cùng học sinh hoàn thành tốt các yêu cầu cần đạt của bộ môn tiếng Việt.
Lê Phương Trí
Bình luận (0)