|
Ông Huỳnh Văn Tiến |
Vượt qua quãng đường gần
150km để tìm gặp nhân chứng trên con tàu 143 đã làm nên “sự kiện Vũng Rô” năm
1965. Người chiến sĩ quả cảm năm xưa ngồi hàng giờ trước biển “lật” lại từng
trang ký ức…
150km để tìm gặp nhân chứng trên con tàu 143 đã làm nên “sự kiện Vũng Rô” năm
1965. Người chiến sĩ quả cảm năm xưa ngồi hàng giờ trước biển “lật” lại từng
trang ký ức…
Nhân chứng tàu 143, ông Huỳnh
Văn Tiến, người con của Bến Tre. Có bận tôi hỏi ông sao không chọn nơi nào khác
để sinh sống mà lại chọn thành phố Vũng Tàu? Ông nhoẻn miệng cười: “Chỉ để ngày
ngày được nghe tiếng sóng vỗ”. Trong suy nghĩ của ông, “được nghe tiếng sóng vỗ”
mỗi ngày như để gửi tiếng lòng nhờ sóng biển “mang” đến cho đồng đội, những con
người nằm xuống dưới đáy biển kia mở ra con đường Hồ Chí Minh trên biển hôm
nay.
Văn Tiến, người con của Bến Tre. Có bận tôi hỏi ông sao không chọn nơi nào khác
để sinh sống mà lại chọn thành phố Vũng Tàu? Ông nhoẻn miệng cười: “Chỉ để ngày
ngày được nghe tiếng sóng vỗ”. Trong suy nghĩ của ông, “được nghe tiếng sóng vỗ”
mỗi ngày như để gửi tiếng lòng nhờ sóng biển “mang” đến cho đồng đội, những con
người nằm xuống dưới đáy biển kia mở ra con đường Hồ Chí Minh trên biển hôm
nay.
Nhân chứng của “sự kiện Vũng
Rô”
Rô”
Sau khi con tàu 401 hoàn
thành nhiệm vụ mở luồng vào Khu 5 (bến Giao Lộ, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định)
và hủy để giữ bí mật, trong vòng ba tháng 11, tháng 12 năm 1964 và tháng
1-1965, tàu 41 cũng đã đưa nhiều chuyến với hàng trăm tấn vũ khí vào Vũng Rô an
toàn. Cùng thời điểm ấy, chiếc tàu 143 do đồng chí Lê Văn Thiêm làm thuyền trưởng
và chính trị viên Lê Văn Bạc chở 63 tấn vũ khí với hai chỉ huy và 18 thủy thủ
trên đường vào bến Giao Lộ, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thì được tin báo mục
tiêu đang bất ổn. Theo lệnh, con tàu này không vào Giao Lộ mà phải nhanh chóng
tiến vào Vũng Rô kịp thời để chi viện vũ khí. Trên tàu, tất cả thủy thủ đều là
những chiến sĩ lần đầu tiên vào Vũng Rô nên không biết đường, mất nhiều ngày so
với dự kiến. Rồi tàu cũng vào được Vũng Rô vào lúc 23 giờ 12 phút ngày
15-2-1965. 63 tấn vũ khí được khẩn trương bốc dỡ đưa lên khe núi cất giấu, kết
thúc xong lúc 4 giờ 30 sáng 16-2. Tàu lập tức được giăng lưới ngụy trang để
quay ra nhưng lại gặp trục trặc. Ông Tiến kể lại, thuyền trưởng Lê Văn Thiêm
cho tàu chạy ra biển nhưng neo nhổ hoài không lên. Anh em trên tàu lo lắng đến
toát mồ hôi. Tôi xung phong xuống hầm tháo chốt, cho tàu chạy lùi để bỏ lại
neo. Khi neo được tháo ra cũng là lúc trời hừng đông, nếu tiếp tục đi sẽ bị địch
phát hiện. Tôi bàn với thuyền trưởng cho tàu cập sát vào vách núi, bẻ lá cây phủ
lên tàu nằm chờ đến tối lại đi tiếp.
thành nhiệm vụ mở luồng vào Khu 5 (bến Giao Lộ, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định)
và hủy để giữ bí mật, trong vòng ba tháng 11, tháng 12 năm 1964 và tháng
1-1965, tàu 41 cũng đã đưa nhiều chuyến với hàng trăm tấn vũ khí vào Vũng Rô an
toàn. Cùng thời điểm ấy, chiếc tàu 143 do đồng chí Lê Văn Thiêm làm thuyền trưởng
và chính trị viên Lê Văn Bạc chở 63 tấn vũ khí với hai chỉ huy và 18 thủy thủ
trên đường vào bến Giao Lộ, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định thì được tin báo mục
tiêu đang bất ổn. Theo lệnh, con tàu này không vào Giao Lộ mà phải nhanh chóng
tiến vào Vũng Rô kịp thời để chi viện vũ khí. Trên tàu, tất cả thủy thủ đều là
những chiến sĩ lần đầu tiên vào Vũng Rô nên không biết đường, mất nhiều ngày so
với dự kiến. Rồi tàu cũng vào được Vũng Rô vào lúc 23 giờ 12 phút ngày
15-2-1965. 63 tấn vũ khí được khẩn trương bốc dỡ đưa lên khe núi cất giấu, kết
thúc xong lúc 4 giờ 30 sáng 16-2. Tàu lập tức được giăng lưới ngụy trang để
quay ra nhưng lại gặp trục trặc. Ông Tiến kể lại, thuyền trưởng Lê Văn Thiêm
cho tàu chạy ra biển nhưng neo nhổ hoài không lên. Anh em trên tàu lo lắng đến
toát mồ hôi. Tôi xung phong xuống hầm tháo chốt, cho tàu chạy lùi để bỏ lại
neo. Khi neo được tháo ra cũng là lúc trời hừng đông, nếu tiếp tục đi sẽ bị địch
phát hiện. Tôi bàn với thuyền trưởng cho tàu cập sát vào vách núi, bẻ lá cây phủ
lên tàu nằm chờ đến tối lại đi tiếp.
10 giờ trưa ngày 16-2-1965,
máy bay trinh sát của ngụy lượn nhiều vòng quanh khu vực tàu 143 đang neo đậu.
Có thể chúng đã phát hiện tàu của ta. Nhiều câu hỏi đặt ra trong đầu của chỉ
huy và thủy thủ tàu 143. Ngay lúc ấy, một trái pháo sáng rơi xuống cách mũi tàu
chừng 4 mét. Chưa hết, trái pháo vừa chạm mặt nước biển cũng là lúc hàng loạt
bom xăng dội ầm ào khiến thân tàu cháy xám, khói bay cuồn cuộn. Ông Tiến cùng đồng
đội lao thẳng đến chỗ đặt khẩu 12 ly 7 để chống trả theo đúng phương án tác chiến
nhưng không được rồi, bom dội xuống liên tục khiến nòng đã bị gãy lìa. Mạn tàu
cháy, một số thủy thủ nhảy xuống bơi vào bờ. Đang hồi hộp lo lắng cho số phận
con tàu, liền một trái bom thả xuống cách chỗ ông Tiến chỉ 3 mét. Ông Tiến đưa
hai tay ôm mặt, máu len theo từng kẽ ngón tay chảy xuống đọng thành vũng dưới
chân. Tiến bị trúng bom rồi. Tiếng của một đồng đội gào lên mỗi lúc một to. Đồng
chí chỉ huy “rẽ” khói đang cuồn cuộn mù mịt để kéo ông Tiến ra ngoài. May quá,
chỉ là bom rơi xuống trúng vách đá sát mép biển, đá văng vào mí mắt, vào mặt
túa máu ra. Lúc bấy giờ, đồng chí chỉ huy lại gào lên cho mọi người cùng nghe:
“Đồng chí Tiến không sao. Anh em cứ giữ yên vị trí chờ lệnh”.
máy bay trinh sát của ngụy lượn nhiều vòng quanh khu vực tàu 143 đang neo đậu.
Có thể chúng đã phát hiện tàu của ta. Nhiều câu hỏi đặt ra trong đầu của chỉ
huy và thủy thủ tàu 143. Ngay lúc ấy, một trái pháo sáng rơi xuống cách mũi tàu
chừng 4 mét. Chưa hết, trái pháo vừa chạm mặt nước biển cũng là lúc hàng loạt
bom xăng dội ầm ào khiến thân tàu cháy xám, khói bay cuồn cuộn. Ông Tiến cùng đồng
đội lao thẳng đến chỗ đặt khẩu 12 ly 7 để chống trả theo đúng phương án tác chiến
nhưng không được rồi, bom dội xuống liên tục khiến nòng đã bị gãy lìa. Mạn tàu
cháy, một số thủy thủ nhảy xuống bơi vào bờ. Đang hồi hộp lo lắng cho số phận
con tàu, liền một trái bom thả xuống cách chỗ ông Tiến chỉ 3 mét. Ông Tiến đưa
hai tay ôm mặt, máu len theo từng kẽ ngón tay chảy xuống đọng thành vũng dưới
chân. Tiến bị trúng bom rồi. Tiếng của một đồng đội gào lên mỗi lúc một to. Đồng
chí chỉ huy “rẽ” khói đang cuồn cuộn mù mịt để kéo ông Tiến ra ngoài. May quá,
chỉ là bom rơi xuống trúng vách đá sát mép biển, đá văng vào mí mắt, vào mặt
túa máu ra. Lúc bấy giờ, đồng chí chỉ huy lại gào lên cho mọi người cùng nghe:
“Đồng chí Tiến không sao. Anh em cứ giữ yên vị trí chờ lệnh”.
Chặn kế hoạch bắt sống 18 thủy
thủ
thủ
Kể từ ngày 16-2-1965, con tàu
143 trở thành tâm điểm chú ý của máy bay tuần tra ngụy. Cứ trời nhá nhem tối,
máy bay trinh sát ùn ùn kéo đến oanh tạc quanh Vũng Rô. Không còn cách nào
khác, 18 thủy thủ trên tàu liên tục thay nhau bơi ra tàu để đánh bộc phá và hủy
tàu theo kế hoạch. Ông Tiến và người đồng đội tìm cách tiếp cận con tàu gài
500kg thuốc nổ để kết thúc sứ mệnh tàu 143. Từ trưa, tàu bị bom dội thẳng làm
nghiêng sang một bên, phải lặn sâu mới tiếp cận được cửa tàu. Lúc lặn, bom đạn
liên tục dội xuống biển khiến tai của ông Tiến lùng bùng, ứ máu nặng. 18 thủy
thủ của tàu 143 hơn một tuần lặn hụp Vũng Rô, đi không được mà ở cũng chẳng
xong bởi tàu và máy bay địch chặn khắp nơi hòng bắt sống các chiến sĩ của tàu.
Lúc ấy, ai cũng nghĩ rằng phen này tàu 143 không còn một ai. Riêng Huỳnh Văn Tiến
thì vẫn bình tĩnh tìm phương án chiến đấu. Và việc cần làm ngay là không để một
thủy thủ nào bị địch bắt sống. Để làm được điều này, trước hết số vũ khí đã được
chuyển lên khe núi cũng phải tiêu hủy. “Tiếc đứt ruột nhưng vì kế hoạch lâu dài
cho con đường vào Nam, đành phải chịu. Anh em nhìn nhau kèm những cái chậc lưỡi”,
ông Tiến nhớ lại. Công binh của Khu 5 được tăng cường xuống để vừa hỗ trợ chiến
đấu và phi tang con tàu. Cùng lúc, từ nhiều hướng ta tổ chức các đợt phản công
nhằm chặt đứt vòng vây của địch để 18 thủy thủ có đường lên núi.
143 trở thành tâm điểm chú ý của máy bay tuần tra ngụy. Cứ trời nhá nhem tối,
máy bay trinh sát ùn ùn kéo đến oanh tạc quanh Vũng Rô. Không còn cách nào
khác, 18 thủy thủ trên tàu liên tục thay nhau bơi ra tàu để đánh bộc phá và hủy
tàu theo kế hoạch. Ông Tiến và người đồng đội tìm cách tiếp cận con tàu gài
500kg thuốc nổ để kết thúc sứ mệnh tàu 143. Từ trưa, tàu bị bom dội thẳng làm
nghiêng sang một bên, phải lặn sâu mới tiếp cận được cửa tàu. Lúc lặn, bom đạn
liên tục dội xuống biển khiến tai của ông Tiến lùng bùng, ứ máu nặng. 18 thủy
thủ của tàu 143 hơn một tuần lặn hụp Vũng Rô, đi không được mà ở cũng chẳng
xong bởi tàu và máy bay địch chặn khắp nơi hòng bắt sống các chiến sĩ của tàu.
Lúc ấy, ai cũng nghĩ rằng phen này tàu 143 không còn một ai. Riêng Huỳnh Văn Tiến
thì vẫn bình tĩnh tìm phương án chiến đấu. Và việc cần làm ngay là không để một
thủy thủ nào bị địch bắt sống. Để làm được điều này, trước hết số vũ khí đã được
chuyển lên khe núi cũng phải tiêu hủy. “Tiếc đứt ruột nhưng vì kế hoạch lâu dài
cho con đường vào Nam, đành phải chịu. Anh em nhìn nhau kèm những cái chậc lưỡi”,
ông Tiến nhớ lại. Công binh của Khu 5 được tăng cường xuống để vừa hỗ trợ chiến
đấu và phi tang con tàu. Cùng lúc, từ nhiều hướng ta tổ chức các đợt phản công
nhằm chặt đứt vòng vây của địch để 18 thủy thủ có đường lên núi.
Chỉ tay về hướng biển, ông Tiến
thở dài nặng nề, tôi có cảm giác nặng hơn cả 63 tấn vũ khí mà đồng đội chuyển
lên tàu chỉ trong vài giờ cách đây 50 năm: “18 anh em từng vào sinh ra tử trên
con tàu 143 nay còn có mấy người?”. Sóng biển dường như đã “nghe” và “cảm” thấu
tiếng lòng của ông Tiến nên đã thôi dữ dội.
thở dài nặng nề, tôi có cảm giác nặng hơn cả 63 tấn vũ khí mà đồng đội chuyển
lên tàu chỉ trong vài giờ cách đây 50 năm: “18 anh em từng vào sinh ra tử trên
con tàu 143 nay còn có mấy người?”. Sóng biển dường như đã “nghe” và “cảm” thấu
tiếng lòng của ông Tiến nên đã thôi dữ dội.
Bài, ảnh: Trần
Tuy An
Tuy An
| Khi hay tin tàu 143 đụng độ suốt một tuần với lực lượng của địch, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã ra lệnh cho ngưng việc vận chuyển vũ khí bằng đường biển để chờ tình hình lắng xuống. Ông Tiến cứ canh cánh nỗi lo “Khu 5 và miền Nam làm sao đánh Mỹ khi thiếu vũ khí?”. Ông không buồn ăn khi đến bữa, cũng chẳng thèm ngủ lúc đêm về. |
Bài 3: Nguyễn Văn Đức – Người trên con tàu trinh sát mở đường


Bình luận (0)