|
Ông Lê Kế Lâm trình bày với phóng viên các phép tính đo vận tốc của tàu và cách xác định hướng gió
|
Cuối năm 1962, thuyền trưởng tàu không số được bổ túc kiến thức khí tượng hải văn, địa văn cũng như kinh nghiệm dân gian đi biển. Người duy nhất được Đại tướng Võ Nguyên Giáp, (lúc bấy giờ là Bí thư Quân ủy) chọn để đào tạo thuyền trưởng là ông Lê Kế Lâm.
“Cầm tay chỉ việc”
Chuẩn bị cho chiến dịch vận chuyển vũ khí vào chiến trường miền Nam, Cục Hải quân (năm 1964 được đổi tên thành Bộ Tư lệnh Hải quân) đã đưa ông Lê Kế Lâm cùng một số người khác đi học tại Trường Sĩ quan Chỉ huy Hải quân 1, Trung Quốc. Sau hai năm, tức năm 1962 về nước, ông được phân công giảng dạy bộ môn hàng hải, Trường Hải quân (Quảng Yên, Quảng Ninh). Bộ Tư lệnh bắt tay đào tạo cán bộ hải quân, chủ yếu đào tạo cán bộ cho Cục Phòng thủ Bờ Bể – Cục Hải quân. Ông Lâm đảm trách việc đào tạo cán bộ hải quân từ cuối năm 1962. Học viên đa phần là người miền Bắc, từ bộ binh chuyển sang. Nói là lớp học nhưng vì bí mật nên không tổ chức trong trường mà tổ chức tại nhà dân ở xã Tiền An, Yên Hưng, Quảng Ninh. Thầy giáo không được biết tên, thân thế của học viên và ngược lại. Ông Lâm cho biết: “Ở lớp này, tôi dạy kiến thức địa văn (kỹ thuật dẫn tàu đi ven bờ, dùng mục tiêu ven bờ để xác định vị trí tàu mình đang ở đâu trên biển – PV). Mục tiêu là ngọn núi, ngọn hải đăng, mỏm đá… có trên hải đồ. Ngoài dạy địa văn, tôi còn giảng dạy về máy hàng hải. Học viên học cách sử dụng la bàn từ, cách đo vận tốc của tàu, đo độ quay trở tàu, bán kính lượn vòng, đo trớn của tàu”.
Sau khi học viên biết được cách sử dụng máy hàng hải, hiểu biết về địa văn sẽ tiếp tục được học về khí tượng hải văn. Ở bộ môn này, thuyền trưởng học được cách nhận biết thế nào là cơn bão, giông, xoáy ngược (áp thấp – PV), quan sát bão, làm thế nào để nhận biết gió thật hay gió cảm giác để xác định hướng… Ông Lâm nói: “Phần lớn học viên lúc đó trình độ văn hóa thấp nên ngoài cách dạy “cầm tay chỉ việc” tôi còn dạy cho anh em kinh nghiệm dân gian để nhận biết thời tiết tốt, xấu. Ví dụ như: Thâm đông hừng tây dựng mây/ Ai ơi ở lại ba ngày hãy đi. Kinh nghiệm thực tế qua những năm tháng ông học được đó là kinh nghiệm nhận biết nơi nào có chim hải âu, thấy cá heo nổi lên thành đàn là biết biển sắp động, màu của bọt nước biển hoặc đang đi thì nghe mùi tanh nồng nặc thì có bão đến”. Theo ông Lâm, nhận biết bọt nước biển rất quan trọng nếu thuyền trưởng không xác định được hướng. Cụ thể là nước ở khu vực sông Cửu Long có màu đen, sông Hồng màu đục… từ đó xác định tàu đang ở vị trí nào. Sau khi đã hoàn thành phần lý thuyết, ông xin phép Bộ Tư lệnh cho anh em lên tàu thực hành.
Ban ngày có địa bàn, thuyền trưởng nhận biết mục tiêu như ngọn núi, mỏm đá, cửa biển… để đoán hướng, còn ban đêm thì sao? Tôi hỏi. “Ban đêm, tôi dạy cho anh em cách nhận biết đâu là sao Bắc Đẩu, sao Chữ Thập… Khi anh em nhận biết được các loại sao thì cũng đã thuộc lòng hướng”.
Mong những chuyến tàu cập bến
Từ cuối 1962 đến đầu 1963, nhiều chuyến tàu không số trên đường vào Nam bị địch phát hiện, phong tỏa. Chuyến nào thoát được vòng vây thì cứ cho tàu chạy về hướng Đông, ra địa phận công hải. Vì cách bờ quá xa, không ít tàu không xác định hướng… Cụ thể là Đoàn 759 đi chuyến tàu đầu tiên vào Quảng Bình không thành, sau đó năm 1960, thuyền trưởng Bông Văn Dĩa đưa tàu gỗ từ Nam ra cũng bị lạc… Trước tình hình đó, Tổng quân ủy Lệnh đoàn 125 mới thêm lớp kỹ thuật viên dẫn tàu thiên văn hàng hải. Người đứng lớp không ai khác ngoài ông Lê Kế Lâm. Lớp khai giảng vào đầu tháng 4-1964, học viên là chính trị viên, thuyền trưởng, hàng hải trưởng từng có mặt trên nhiều chuyến tàu không số như Nguyễn Văn Đức, Nguyễn Xuân Thơm, Trần Phấn, Trần Phong…. Lớp học kéo dài khoảng bốn tháng với sử dụng thành thạo máy 1/6 (faxtank), đồng hồ thủy văn, quả cầu sao, bảng tính hàng hải và bảng tính thiên văn. Cứ 4 giờ sáng đến 9 giờ 30, thầy và trò ra bãi biển Đồ Sơn nhìn về phía Đông đo độ cao của sao, dùng la bàn làm phương vị rồi lấy kết quả đọc tính, tìm vị trí của tàu. Đầu tháng 8-1964, ông Lâm báo cáo kết quả học tập và xin đoàn cho tàu đi thực tế. Đoàn 125 đồng ý cho tàu đưa ra đảo Bạch Long Vỹ thực hành vào ngày 5-8-1964.
Dù gắn bó với lớp học không lâu, thầy và trò không biết về nhau nhiều nhưng khi chia tay mỗi người một nhiệm vụ ai cũng bịn rịn. Ông Lâm hồi tưởng: “Làm sao quên được những ngày tháng ấy. Tình cảm thầy trò thân mật nhưng không thể thổ lộ. Vào ngày nghỉ, thầy và trò ngồi quây quần bên nhau. Học viên miền Nam thì đờn ca tài tử, anh em Quân khu 5 ra thì hô bài chòi…”. Chia tay lớp học, suốt thời gian ấy, ông Lâm luôn trông chờ kết quả những chuyến tàu. Khi có điều kiện, người thầy còn lặn lội dưới làn bom đạn đến tận bến để căn dặn học viên của mình.
Trong thời gian tôi gặp gỡ nhân chứng để thực hiện loạt bài “Những linh hồn của đoàn tàu không số”, hầu hết chiến sĩ từng được ông dạy đều đánh giá thầy Lâm rất giỏi về địa văn và khí tượng hải văn. Ông Trần Phong, nguyên thuyền trưởng tàu Phương Đông 1, Quyền tham mưu trưởng Lữ đoàn 125 cho biết: “Không ít thuyền trưởng tàu không số xuất thân từ ngư dân nhưng không phải ai cũng có kinh nghiệm về khí tượng hải văn. Như tôi lúc đó, muốn biết vận tốc của tàu hoặc xác định hướng gió thật, gió cảm giác mà nghĩ hoài không ra. Thầy Lâm đã dạy rất kỹ, cách diễn đạt cũng dễ hiểu. Nhiều chuyến tàu gặp nạn, nếu không được học từ thầy Lâm chắc cũng bỏ mạng rồi”. Ông Lâm tâm sự: “Chưa một lần được đi tàu chở vũ khí nhưng tôi hiểu được gian khó, mất mát có thể xảy ra mà anh em phải đối diện. Tôi tự hào mình đã góp một phần kiến thức chuyên môn cho anh em”.
Bài, ảnh: Trần Trọng Tri
| Thiếu tướng Lê Kế Lâm (77 tuổi) quê thị xã Cửa Lò, huyện Nghi Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Năm 1962-1964: Dạy Trường Sĩ quan Hải quân và Đào tạo thuyền trưởng. Cuối năm 1967, ông được Quân ủy điều về chiến trường B5 (Quảng Trị) phục vụ lắp thủy lôi cho đặc công trong đợt Tổng tiến công Mậu thân. Năm 1973-1977: học tại Liên Xô, về nước làm Tham mưu phó Hạm đội 71 – Ba Son. Từ năm 1988-2001: Hiệu phó Trường Sĩ quan Chỉ huy Kỹ thuật Hải quân (nay là Học viện Hải quân). |


Bình luận (0)