- 1 Những người bảo tồn loại hình nghệ thuật dân gian
Trong lúc các loại hình nghệ thuật truyền thống ngày càng khó tiếp cận khán giả thì họ luôn đầy nhiệt huyết, luôn mong muốn đưa chèo và dân ca quan họ Bắc Ninh vào trường học, sách giáo khoa để thế hệ trẻ cảm nhận vẻ đẹp của 2 loại hình nghệ thuật dân gian này.

Mong muốn đưa nghệ thuật chèo vào trường học
Chèo là một trong những loại hình sân khấu dân gian lâu đời bậc nhất của Việt Nam và là món ăn tinh thần gần gũi của người Việt, đặc biệt là ở miền Bắc.
Theo nghệ sĩ chèo Hữu Thuận, anh được tiếp xúc với chèo từ khi còn bé qua những lời hát của mẹ. Tuy nhiên khi ấy nam nghệ sĩ vẫn chưa biết những làn điệu câu hát ấy là chèo, chỉ khi lớn lên, anh mới nhận ra những lời hát thân thương ngọt ngào ấy chính là nghệ thuật chèo. Dù mẹ anh không phải là nghệ sĩ chèo mà chỉ đơn giản là người mê hát chèo nhưng đã gieo tình yêu loại hình nghệ thuật này vào tâm hồn của anh.
Nghệ sĩ Hữu Thuận cho biết, nghệ thuật chèo rất phong phú về ca từ, làn điệu mang màu sắc từ hài hước, vui nhộn cho đến buồn bã, tự sự, trữ tình. Nhắc đến các tác phẩm tiêu biểu của chèo, không thể không kể đến ca khúc Đào liễu nổi tiếng. Ngoài Đào liễu, nghệ sĩ chèo Hữu Thuận cũng đề cập đến nhiều làn điệu chèo khác cũng phổ biến như Luyện năm cung, Chức cẩm hồi văn, Đường trường phải chiều (hay còn gọi là Duyên phận phải chiều), Đường trường thu không, Đường trường trong rừng, Đường trường bắn thước…

Nghệ thuật chèo có điểm đặc biệt đó là có thể kết hợp các loại hình nghệ thuật khác như hát xẩm, hát văn… Do đó, khán giả khi nghe bài Mục hạ vô nhân thì tưởng là chèo nhưng thực tế giai điệu này thuộc về hát xẩm. Song trong vở diễn chèo, những giai điệu hát xẩm, hát văn vẫn có thể kết hợp nhằm tạo nên sự phong phú, đặc sắc của tiết mục.
Bên cạnh đó, nghệ thuật chèo còn có điểm thú vị ở các vai hề khi không chỉ mang đến những tiếng cười mà còn thể hiện châm biếm sâu sắc nhằm truyền tải thông điệp về giá trị đạo đức. Thậm chí, người xưa còn có câu “phi hề bất thành chèo”, nghĩa là nếu không có vai hề thì không thể gọi là nghệ thuật chèo. Nghệ sĩ Hữu Thuận chia sẻ: “Dù là đề tài về lịch sử, chèo cổ hay chèo hiện đại thì những vai hề là luôn gắn bó khăng khít chặt chẽ trong vở diễn. Nếu mà không có những vai hề thì “phi hề bất thành chèo”.
Nghệ sĩ Hữu Thuận luôn mong muốn truyền tải nghệ thuật chèo đến với các khán giả trẻ bằng cách đưa vở diễn chèo vào trường học từ tiểu học đến trung học. Ngoài ra, anh cũng hy vọng có thể đưa vào sách giáo khoa âm nhạc những bài hát chèo vui nhộn, dí dỏm, phù hợp với lứa tuổi học sinh để các em dần tiếp xúc và cảm nhận được cái hay, cái đẹp của loại hình nghệ thuật chèo.

Bằng tài năng thiên phú, nghệ sĩ Hữu Thuận không chỉ cống hiến hết mình cho nghệ thuật chèo mà còn góp phần gìn giữ và lưu truyền loại hình nghệ thuật truyền thống của dân tộc.
Đề xuất phát huy dân ca quan họ bằng cách viết lời mới
Dân ca quan họ Bắc Ninh được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại vào năm 2009. Bên cạnh việc bảo tồn, nghệ sĩ quan họ Nguyễn Thị Thanh đề xuất cách phát huy bằng cách viết lời mới dựa trên những làn điệu truyền thống nhằm lan tỏa quan họ đến đông đảo người nghe.
Theo nghệ sĩ Nguyễn Thị Thanh, dân ca quan họ là một hình thức hát giao duyên giữa liền anh, liền chị nên phong cách trình diễn cũng rất nhẹ nhàng và tình tứ. Ngay cả các động tác minh họa vô cùng nhẹ nhàng, tình cảm và tinh tế. Chẳng hạn khi liền anh, liền chị muốn giao duyên với bạn diễn thì phải đưa mắt chậm rãi nhìn sang rồi mới quay mặt để giao tiếp bằng mắt một cách nền nã, lịch thiệp. Ngoài ra, nghệ sĩ hát dân ca quan họ phải đứng hình chữ V để có thể giao lưu với khán giả lẫn bạn diễn.
Trang phục quan họ gồm trang phục nam và trang phục nữ. Trang phục truyền thống của nam là áo dài, khăn xếp. Trang phục của nữ có hai loại, gồm áo năm thân và áo tứ thân. Áo năm thân có hai lớp áo kép, lớp trong áo đỏ, lớp ngoài là áo the đen. Áo năm thân cài khuy và có một vạt áo xanh phía trước, đặc trưng của trang phục quan họ. Riêng áo tứ thân quan họ giống như trang phục hát chèo, bên trong là áo cánh trắng, bên ngoài là áo màu, hai vạt trước được thắt lại.
Khi biểu diễn quan họ lời mới, nghệ sĩ có thể mặc áo tứ nhưng khi hát quan họ lời cổ, nghệ sĩ phải mặc trang phục truyền thống áo năm thân, đội khăn mỏ quạ. Tương tự dân ca Nam bộ, dân ca quan họ Bắc Ninh trước khi viết lời mới thì nghệ sĩ phải hiểu rõ lời cổ. Sau đó mới có thể sáng tạo, viết lời mới phù hợp với chủ đề các chương trình âm nhạc nghệ thuật như mừng Đảng, mừng xuân, Ngày Giải phóng miền Nam 30-4, Ngày Thương binh – Liệt sĩ 27-7, ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam 22-12…
Cũng theo nghệ sĩ Nguyễn Thị Thanh, hát quan họ là hát đối đáp, trong đó có đối lời và đối giọng. Chẳng hạn khi liền anh hát bài Ngồi tựa mạn thuyền thì liền chị đáp lại làn điệu Ngồi tựa song đào, hay đối với bài Đôi bên bác mẹ cùng già là bài Đôi bên bác mẹ tương tề. Chính vì sự đối đáp ấy mà các nghệ sĩ quan họ ngày trước rất thông thái, có khả năng ứng khẩu tài tình và để lại một kho tàng quan họ phong phú.
Trước dòng chảy của cuộc sống hiện đại, dân ca quan họ Bắc Ninh cũng không nằm ngoài vòng xoáy thay đổi. Vì thế, quan họ cổ luôn được bảo tồn từ bao đời nay. Tuy nhiên để quan họ phát triển thì sự thích ứng là điều không thể thiếu. Vì ca từ quan họ cổ có thể trở nên xa lạ, khó hiểu đối với khán giả miền Nam hay quốc tế nên các nhạc sĩ viết lại lời mới, giúp quan họ dễ tiếp cận với đông đảo khán giả, đặc biệt là giới trẻ. Nhờ đó, dân ca quan họ Bắc Ninh không chỉ giữ được hồn cốt truyền thống mà còn được khoác lên một “tấm áo mới”, lan tỏa tình yêu nghệ thuật dân tộc đến với công chúng.
Khôi Nguyên
Bình luận (0)