|
Tượng vua Quang Trung được dát vàng tại Bảo tàng ở Tây Sơn – Bình Định |
Cuộc khởi nghĩa do anh em Tây Sơn lãnh đạo, bắt đầu từ năm 1771 đến 1773 thì giành thắng lợi đầu tiên: giải phóng hai phủ Qui Nhơn, Quảng Ngãi. Từ đó, suốt 16 năm chinh chiến, tung hoành dọc ngang đất nước, ra Bắc vào Nam, đánh bại ba tập đoàn Lê – Trịnh – Nguyễn cát cứ hàng mấy trăm năm, quét sạch hai tên xâm lược, làm nên chiến thắng Đống Đa oanh liệt xuân Kỷ Dậu 1789. Anh em Tây Sơn có được những thành tựu vĩ đại ấy, một phần nhờ thuở niên thiếu họ có những người thầy tài năng đức độ, dạy bảo tận tình.
Theo dân gian truyền lại và dựa vào sử sách ghi chép về năm mất, tuổi thọ của Nguyễn Huệ, thì ước đoán Nguyễn Nhạc hơn Nguyễn Huệ 10 tuổi, sinh khoảng năm Quí Hợi 1743. Nguyễn Huệ sinh Quí Dậu 1753 và Nguyễn Lữ sinh Giáp Tuất 1754.
Tuổi niên thiếu cả ba anh em đều được học thầy Hiến và thầy Nhưng. Thầy Trương Văn Hiến người ở Hoan Châu (Nghệ An), anh em thúc bá với Ngoại hữu Trương Văn Hạnh, một đại thần của chúa Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát. Khi Võ Vương chết (1765), do lập vây cánh tranh giành ngôi chúa, Quốc phó Trương Phúc Loan đã giết Trương Văn Hạnh, phế bỏ Thế tử Nguyễn Phúc Luận (cha Nguyễn Phúc Ánh) lập con thứ 16 của Võ Vương là Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi lên ngôi chúa. Trương Văn Hiến sợ bị hại, chạy trốn vào ấp An Thái (nay thuộc xã Nhơn Phúc, huyện An Nhơn, Bình Định) để dạy học. Thầy Hiến bắt buộc học trò phải học cả văn lẫn võ, bởi thầy cho rằng văn không có võ thì thường nhu nhược, yếu đuối. Ngược lại, võ không có văn thì hay ngỗ nghịch, bạo cường. Muốn làm một con người đứng vững trong thiên hạ, phải có văn võ bổ sung cho nhau.
Anh em Tây Sơn học võ trọng hơn văn. Nguyễn Nhạc học kiếm pháp. Nguyễn Huệ học đao pháp. Còn Nguyễn Lữ học miên quyền là những ngón sở trường của từng người. Thật ra, cả ba người đều giỏi thập bát ban võ nghệ.
Khi ông Nguyễn Phi Phúc qua đời, Nguyễn Nhạc phải gánh vác việc nhà. Nguyễn Lữ xuất gia theo Minh Giáo. Chỉ còn Nguyễn Huệ tiếp tục ở với thầy giáo Hiến học thêm.
Nguyễn Nhạc rời nhà từ Phú Lạc (quê ngoại) lên Kiên Mỹ ở gần sông Côn để tiện buôn bán. Trầu cau từ Tây Sơn thượng đạo (An Khê) chở xuống bán. Khi qua lại đất Bằng Châu cùng thuộc huyện An Nhơn, Nguyễn Nhạc được ông Đinh Văn Nhưng nhận làm con nuôi và dạy thêm võ nghệ. Thân sinh ra thầy Nhưng vốn quê ở Ninh Bình, đi lính cho chúa Nguyễn, lấy vợ ở Thời Đôn ấp, sinh 3 con, 2 trai 1 gái. Thầy Nhưng là con thứ hai, nhà giàu có. Nguyễn Nhạc tinh thông võ nghệ, tính lại hào hoa phong nhã nên giao thiệp rộng, được nhiều người trong vùng, nhất là các tay “anh chị” rất kính nể. Khi ông mua được thanh kiếm quí bèn mang đến biếu thầy Hiến. Thầy nâng thanh kiếm ngắm nghía rồi trao lại cho Nguyễn Nhạc, bảo:
– Lúc này kẻ anh hùng có thể dựng lên sự nghiệp. Con không nên bỏ lỡ.
Thấy Nguyễn Nhạc còn phân vân, thầy Hiến nói tiếp:
– Trương Phúc Loan chuyên quyền, làm nhiều điều gian ác khiến triều chính đảo điên, lòng người oán hận. Nếu con phất cờ khởi nghĩa thì thiên hạ đều hưởng ứng theo cả đó.
Thầy cho Nguyễn Huệ trở về giúp anh và tặng hai bộ binh pháp của Tôn Tử và Trần Hưng Đạo. Thầy còn bày mưu kế giúp Nguyễn Nhạc gây niềm tin, thu phục lòng người, nhất là các dân tộc ít người ở vùng thượng đạo. Nguyễn Nhạc mời thầy làm chủ súy cuộc khởi nghĩa, nhưng thầy thoái thác vì tuổi cao sức yếu, chỉ nhận làm “cố vấn” mà thôi.
Còn thầy Đinh Văn Nhưng thì đem thuộc hạ nhập vào đội ngũ nghĩa quân và giúp 700 vuông (mỗi vuông khoảng 20 kg) gạo, bắp, đậu… cho anh em Nguyễn Nhạc.
Sau ngày khởi nghĩa thành công, Nguyễn Nhạc lên ngôi hoàng đế, phong cho thầy Nhưng tước “Điện tiền đại đô đốc tả thân vệ úy Sanh Sơn Bá”. Thầy không nhận mà chỉ xin được tự phong cho mình:
“Bồng bềnh chi tướng/ Uýnh ướng chi quan/ Bộn bàn chi chức/ Chảng ngang thiên”.
Như thế có nghĩa là thầy chẳng thèm nhận chức tước gì. Thỉnh thoảng thầy vào triều thăm nhà vua, ngồi xe bò, đi dép cỏ, che cây du du (dụng cụ che nắng khi làm đồng của nông dân), có hai hàng trai tráng vác cào cỏ, mỏ gảy đi hầu. Vào triều không cúi lạy, vẫn gọi vua bằng “anh”, xưng “ta”. Người đời gọi thầy là ông Chảng. “Ngang như ông Chảng”, “Chảng ngang thiên”. Nguyễn Nhạc rất kính trọng thầy, ân cần tiếp đón, không bắt bẻ gì.
Nguyễn Huệ khi làm Bắc Bình vương rồi, dù không học chữ nào cũng tôn Nguyễn Thiếp làm thầy, ba lần mời La Sơn Phu Tử giúp mình. Ông viết trong thư: “Nay Phu Tử nghĩ đến thiên hạ, với sinh dân, vụt dậy ra đi, để cho quả đức có thầy mà thờ, cho đời này có người mà cậy. Như thế mới ngõ hầu khỏi phụ ý trời sinh ra người giỏi”. Dù cả ba lần đều bị từ chối, Nguyễn Huệ khi lên ngôi hoàng đế, trên đường ra Bắc đánh quân Thanh, vẫn dừng ở Hà Tĩnh để gặp Nguyễn Thiếp xin ý kiến. Sau khi chiến thắng trở về, Nguyễn Huệ viết thư mời Phu Tử vào Phú Xuân với lời biết ơn: “Người xưa nói “Một lời nói mà dấy nổi cơ đồ”. Lời tiên sinh quả có thế thật”.
Mùa thu năm 1789, ông mời Nguyễn Thiếp làm chánh chủ khảo kỳ thi lấy tiến sĩ ở Nghệ An. Năm 1791 lại mời Phu Tử vào Phú Xuân làm Viện trưởng Viện Sùng chính ông vừa thành lập (như Bộ GD-ĐT bây giờ) nhằm cải cách việc học, dịch các sách kinh sử ra quốc ngữ và đào tạo nhân tài cho đất nước. Bằng tấm lòng kính trọng chân thành, thực sự “tôn sư trọng đạo” Nguyễn Huệ đã khiến cho La Sơn Phu Tử đem hết tài năng, sức lực của mình cống hiến cho triều đại mới.
Đó là những người thầy lớn của anh em Tây Sơn mà sử sách còn ghi.
NGUYỄN VĂN CHƯƠNG


Bình luận (0)